Ngàn Năm Thăng Long

Trung Quốc nằm gai nếm mật, chờ ngày phục hận?

The Economist

Dịch giả : Nguyễn Quốc Khải

Sử Gia Edward Carr nhận định: Trung Quốc khẳng định rằng tăng cường sức mạnh quân sự và ảnh hưởng ngoại giao không là mối đe dọa đối với ai. Thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ, không đoan chắc như vậy
.

Vào năm 492 trước Công Lịch, vào cuối Thời Kỳ Xuân Thu trong lịch sử Trung Hoa, Vua Câu Tiễn của nước Việt tại vùng Chiết Giang hiện nay bị bắt làm tù binh sau một trận chiến chống lại Vua Phù Sai của nước Ngô, một quốc gia láng giềng về phía Bắc. Câu Tiễn bị bắt làm việc ở chuồng ngựa của Vua Ngô, nhưng vẫn giữ nhân cách của mình trong thời gian bị giam giữ nên được Vua Phù Sai dần dần kính nể. Sau vài năm, Vua Phù Sai cho phép Câu Tiễn trở về quê quán với tước hiệu của một chư hầu.

Sức mạnh của Trung Quốc

Câu Tiễn không bao giờ quên được nỗi nhục. Đêm nằm trên giường kết bằng cành cây và hàng ngày liếm một túi mật treo ở trong phòng để nuôi dưỡng ý chí trả thù. Nước Việt xem ra trung thành với Vua Ngô. Nước Việt lại có nhiều thợ thủ công khéo léo và gỗ tốt nên Vua Ngô xây nhiều cung điện và lâu đài khiến mang nợ. Câu Tiễn làm Vua Ngô lãng trí với nhiều gái đẹp nhất của nước Việt (trong đó có Tây Thi), hối lộ quan chức của nước Ngô, mua ngũ cốc để làm cạn kho lương thực của Vua Phù Sai. Trong khi vương quốc của Phù Sai suy sụp, nước Việt trở nên giàu có và gây dựng một đạo quân mới. Câu Tiễn chờ đợi thời cơ trong suốt 8 năm trời. Vào năm 482 trước Công Lịch, tin tưởng vào ưu thế của mình, Câu Tiễn đưa gần 50.000 quân tiến về phía Bắc. Sau một vài trận chiến, Câu Tiễn đánh bại Phù Sai và nước Ngô.

Câu chuyện nằm gai nếm mật rất quen thuộc đối với người dân Trung Hoa như câu chuyện Vua Alfred và những chiếc bánh đối với người Anh, và Tổng Thống George Washington và loại cây anh đào đối với dân Mỹ. Vào đầu thế kỷ 20, Vua Câu Tiễn trở thành một biểu tượng của sự phản kháng của Trung Hoa chống lại những thương ước buộc nước này phải mở rộng hải cảng và những nhượng bộ khác do ngoại quốc đòi hỏi trong những năm Trung Hoa bị hạ nhục biến thành thuộc địa.

Câu chuyện ngụ ngôn về Vua Câu Tiễn được kết luận bởi một số người như là một báo động đối với việc Trung Quốc trở thành một đại cường quốc hiện nay. Kể từ khi Đặng Tiểu Bình quyết định cải tổ kinh tế vào năm 1978, Trung Quốc chỉ nói về hòa bình. Còn quá yếu về mặt quân sự và kinh tế để có thể thử thách Hoa Kỳ, Trung Quốc chú trọng về việc làm giàu. Ngay cả khi Trung Quốc tăng cường sức mạnh và xây dựng lại quân đội, Tây Phương và Nhật Bản mắc nợ và bán kỹ thuật cho Trung Quốc. Cho đến nay Trung Quốc vẫn kiên nhẫn, nhưng cái ngày quốc gia này có thể thực hiện ý muốn của mình đã gần kề.

Tuy nhiên cũng có một cách giải thích khác về chuyện vua Câu Tiễn. Học giả Paul Cohen của Đại Học Harvard viết về vua Trung Quốc giải thích rằng người dân Trung Quốc nhìn Vua Câu Tiễn như một tấm gương kiên trì và tận tụy. Học sinh được dạy rằng nếu muốn thành công thì phải như vua Câu Tiễn, nằm gai nếm mật – những thành quả lớn đòi hỏi sự hi sinh và phải có mục đích vững chắc. Vua Câu Tiễn này tượng trưng cho sự tự cải tiến và tận tụy, không phải là sự trả thù.

Vào thế kỷ 21 này Trung Quốc sẽ theo Vua Câu Tiễn nào? Trung Quốc sẽ hội nhập hay không vào thế giới Tây Phương nơi mà mọi người không mong muốn gì hơn là có cơ hội thành công và thụ hưởng kết quả của sự làm việc vất vả? Hay là khi sự giầu có và sức mạnh của Trung Quốc vượt qua tất cả các nước ngoại trừ Hoa Kỳ, Trung Quốc sẽ trở thành một mối đe dọa – một quốc gia tức giận muốn phục thù những sai trái trong quá khứ và buộc những nước khác phải uốn mình theo ý muốn của Trung Quốc? Jim Steinberg, Phụ Tá Bộ Trưởng Ngoại Giao của Hoa Kỳ nhận xét rằng sự lựa chọn vai trò của Trung Quốc là “một vấn đề to lớn của thời đại của chúng ta”. Nền hòa bình và thịnh vượng của thế giới phụ thuộc vào con đường lựa chọn của Trung Quốc.

Một số người lập luận rằng hiện nay Trung Quốc vướng mắc quá sâu vào mạng lưới toàn cầu hóa để có thể làm đảo lộn kinh tế thế giới bằng chiến tranh hoặc áp bức. Thương mại đã mang lại sự thịnh vượng. Trung Quốc mua nguyên liệu và bộ phận ở nước ngoài và bán sản phẩm chế tạo trên thị trường ngoại quốc. Hiện nay Trung Quốc có trong tay $2,600 tỉ tỉ dự trữ ngoại tệ. Tại sao Trung Quốc lại muốn phá xập hệ thống đã phục vụ nước này một cách khá tốt đẹp?

Nhưng quan điểm này quá lạc quan. Trong quá khứ sự hội nhập đến trước xung đột. Thật vậy, châu Âu nằm trong biển lửa vào năm 1914 mặc dù Đức là thị trường xuất cảng lớn thứ hai của Anh và Anh là thị trường lớn nhất của Đức. Nhật Bản trở nên giàu có và gia nhập vào nhóm các cường quốc châu Âu trước khi muốn biến châu Á thành thuộc địa một cách thô bạo.

Một số người khác có quan điểm cực đoan trái ngược lập luận rằng Trung Quốc và Hoa Kỳ bắt buộc là kẻ thù của nhau. Theo những người này kể từ khi Đế Quốc Sparta lãnh đạo Liên Minh Peloponnesian chống lại Athens (theo lịch sử Hy Lạp 600 năm trước Công Lịch), những cường quốc suy thoái không chịu nhượng bộ nhanh chóng để thỏa mãn những cường quốc đang vươn lên. Theo kịch bản này, khi sức mạnh kinh tế và quân sự tăng lên, quyền hạn và tham vọng của Trung Quốc cũng sẽ tăng lên. Cuối cùng, Trung Quốc không còn kiên nhẫn được nữa vì Hoa Kỳ sẽ không muốn từ bỏ vai trò lãnh đạo.

Trung Quốc và các nước lân cận


Lý do để lạc quan

Quan điểm trên quá đơn sơ và bi quan. Trung Quốc quyết tâm đòi hỏi chủ quyền lãnh thổ về Đài Loan, Nam Hải, một số hải đảo và tranh chấp về biên giới với Ấn Độ. Tuy nhiên không giống những đại cường quốc trước 1945, Trung Quốc không tìm thuộc địa. Và khác với Liên Bang Xô Viết, Trung Quốc không có chủ thuyết để xuất cảng. Thật sự, lý tưởng cấp tiến của Hoa Kỳ có sức thuyết phục hơn là chủ nghĩa Cộng Sản, đạo Khổng hâm nóng, hoặc bất cứ cái gì khác mà Trung Quốc cống hiến. Khi hai nước đều có võ khí nguyên tử, không đáng công để họ giao chiến với nhau.

Trên thực tế, sự giao tiếp giữa những cường quốc đang vươn lên và những cường quốc đang suy thoái không đơn giản. Hai lần nước Anh lo sợ một nước Đức bành trướng chế ngự châu Âu và cả hai lần nước Anh đã tham chiến. Tuy nhiên, Hoa Kỳ giành vai trò lãnh đạo thế giới khỏi tay của Anh và hai nước vẫn tiếp tục là đồng minh của nhau. Sau Đệ Nhị Thế Chiến, Nhật Bản và Đức vươn dậy từ đám tro tàn và trở thành cường quốc kinh tế thứ hai và thứ ba của thế giới mà không có một dấu hiệu nào muốn thử thách Hoa Kỳ.

Những lý thuyết gia về bang giao quốc tế dành nhiều suy nghĩ về sự suy tàn của những đế quốc. Sự hiểu biết sâu sa về “lý thuyết về chuyển tiếp quyền lực” (power-transition theory) cho thấy rằng những cường quốc như Đức và Nhật Bản sau chiến tranh không thách thức trật tự thế giới khi họ vươn lên. Nhưng những cường quốc bất mãn như Đức và Nhật Bản thời tiền chiến nghĩ rằng hệ thống bố trí và duy trì của những cường quốc đang ngự trị tìm cách chống họ. Trong thời đại hỗn loạn của địa chính (geopolitics), những quốc gia này tin rằng những quyền lợi chính đáng của mình sẽ bị phủ nhận, trừ khi họ ép buộc các nước khác phải tôn trọng.

Theo nhận định của GS David Lampton thuộc Shool of Advanced International Studies, Johns Hopkins University, trong gần cả một thập niên vừa qua hai đại cường quốc tiến gần đến tình trạng được gọi là hai cuộc đánh cá. Một cách tổng quát, Trung Quốc nằm trong trật tự hậu chiến của Hoa Kỳ, đánh cá rằng những nước khác trên thế giới cần sự giúp đỡ và thị trường của Trung Quốc, sẽ cho phép Trung Quốc làm giàu hơn và mạnh hơn. Hoa Kỳ không ngăn cản sự vươn lên của Trung Quốc với niềm tin rằng sự thịnh vượng cuối cùng sẽ biến Trung Quốc thành một trong những quốc gia ủng hộ chế độ - một “cổ đông có trách nhiệm” theo cách nói của Ông Robert Zoellick, Thứ Trưởng Ngoại Giao dưới thời Tổng Thống George W. Bush và nay là Chủ Tịch Ngân Hàng Thế Giới.

Trong gần cả một thập niên vừa qua, bỏ ra ngoài những xích mích nhỏ, hai cuộc đánh cá trên đã thành công. Trước 2001, Trung Quốc và Hoa Kỳ tranh cãi nhau về Đài Loan, Hoa Kỳ ném bom vào Tòa Đại Sứ Trung Quốc tại Belgrade và vụ đụng độ làm chết người giữa phi cơ do thám EP3 của Hoa Kỳ và một chiến đấu cơ của Trung Quốc. Nhiều bình luận gia vào lúc đó nghĩ rằng Hoa Kỳ và Trung Quốc ở trong chiều hướng nguy hiểm, nhưng những nhà lãnh đạo Trung Quốc và Hoa Kỳ đã không theo đuổi con đường này. Kể từ đó, Hoa Kỳ bận rộn với việc chống khủng bố, và chọn lựa cách ứng phó một cách đơn giản với Trung Quốc. Những công ty Mỹ vui vẻ được tiếp cận với thị trường của quốc gia này. Trung Quốc cho chính phủ Hoa Kỳ vay một số tiền lớn lao.

Điều này rất phù hợp với Trung Quốc. Đã từ lâu Trung Quốc kết luận rằng cách tốt nhất để xây dựng quyền lực quốc gia toàn diện là phát triển kinh tế. Theo sự phân tách của Trung Quốc qua những sách trắng và những bài diễn văn vào cuối thập niên 1990 và đầu thập niên 2000, Trung Quốc cần một “Quan Niệm An Ninh Mới.” Phát triển cần sự ổn định. Điều này đòi hỏi rằng những quốc gia lân cận với Trung Quốc không cảm thấy bị đe dọa.

Để làm các nước láng giềng an tâm cũng như để chứng tỏ mình là một công dân tốt, Trung Quốc gia nhập những tổ chức quốc tế mà một thời họ đã xa lánh. Đây là cách an toàn nhất để đối phó với ảnh hưởng của Hoa Kỳ. Trung Quốc lãnh đạo cuộc thương thuyết giữa sáu nước để ngăn chặn chương trình nguyên tử của Bắc Hàn. Chính phủ Trung Quốc ký kết Hiệp Định Chống Việc Thử Nghiệm Võ Khí Nguyên Tử Toàn Diện (Comprehensive Test-Ban Treaty) và một cách tổng quát chấm dứt phổ biến võ khí (mặc dù những công ty đểu cáng vẫn tiếp tục việc này). Trung Quốc gửi nhiều nhân viên tham dự vào những hoạt động duy trì hòa bình của Liên Hiệp Quốc hơn là các thành viên thường trực của Hội Đồng An Ninh hoặc bất cứ quốc gia nào trong tổ chức Liên Minh Bắc Đại Tây Dương (NATO).

Chắc chắn là vẫn còn có những tranh chấp và khác biệt. Nhưng những nhà ngoại giao, những người làm chính sách, và giới học giả tự cho phép mình tin tưởng rằng trong thời đại nguyên tử, Trung Quốc có thể trỗi dậy thành một đại cường quốc mới một cách hòa bình. Tuy nhiên, sự tin tưởng đó đã yếu đi. Trong vài tháng qua, Trung Quốc đã tranh cãi với Nhật về việc một chiếc thuyền đánh cá của Trung Quốc đã đâm vào ít nhất một lần, nếu không phải là hai, hai chiến hạm bảo vệ duyên hải ngoài khơi của một chuỗi đảo mà Nhật Bản gọi là Senkaku và Trung Quốc gọi là Diaoyu (Điểu Ngư).

Trước đó, Trung Quốc đã không ủng hộ Nam Hàn về vụ một chiến hạm của Hải Quân Nam Hàn bị bắn chìm và 46 thủy thủ bị thiệt mạng – mặc dầu một nhóm chuyên viên quốc tế đã kết luận rằng chiến hạm Cheonan bị tấn công bởi một tầu ngầm của Bắc Hàn. Khi Hoa Kỳ và Nam Hàn phản ứng lại bằng cách tổ chức một số cuộc tập dượt hỗn hợp ở Hoàng Hải (Yellow Sea), Trung Quốc đã phản đối và đã buộc một cuộc tập dượt phải dời qua biển Nhật Bản. Và khi Bắc Hàn nã đạn vào một hòn đảo của Nam Hàn vào tháng vừa qua, rõ ràng là Trung Quốc lên án Bắc Hàn một cách miễn cưỡng.

Trung Quốc cũng đã bắt đầu xếp việc dành chủ quyền trên những phần rất lớn của Nam Hải vào danh sách sáu “quan tâm hàng đầu” của Trung Quốc – một ngôn ngữ mới đã làm những nhà ngoại giao lo ngại. Khi các nước hội viên của Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (Association of South-East Asian Nations - ASEAN) than phiền tại buổi họp tại Hà Nội vào mùa Hè, Bộ Trưởng Ngoại Giao của Trung Quốc Dương Khiết Trì (Yang Jiechi) đã tức giận tuyên bố: “Tất cả quý vị nhớ rằng bao nhiêu thịnh vượng kinh tế của quý vị dựa vào chúng tôi”. Theo báo cáo, ông ta cũng phản ứng bằng cách nhổ nước bọt.

Năm ngoái, một bài xã luận đầy ác ý của tờ Nhật Báo Nhân Dân của Trung Quốc đã tấn công Ấn Độ sau khi Ông Manmohan Singh Thủ Tướng của nước này viếng thăm một địa điểm trong vùng tranh chấp gần Tây Tạng; Tổng Thống Barack Obama bị đối xử một cách bất xứng, lần thứ nhất trong cuộc viếng thăm Bắc Kinh và lần thứ hai tại Hội Nghị về biến đổi khí hậu tại Copenhagen. Tại đây một viên chức ngoại giao cấp thấp của Trung Quốc chỉ chỏ ngón tay vào nhà lãnh đạo của thế giới tự do như để quở trách. Những chiến hạm của Trung Quốc liên tiếp quấy nhiễu tàu của hải quân Hoa Kỳ và Nhật Bản, kể cả khu trục hạm USS John S. McCain và tàu tuần thám USNS Impeccable.

Những điều này xem ra nhỏ bé nhưng mang tính cách quan trọng vì cả đôi bên đều dò dẫm ý đồ của nhau. Hoa Kỳ liên tục tìm kiếm những dấu hiệu cho thấy Trung Quốc chấm dứt quan hệ bình thường và trở thành gây hấn – Trung Quốc cũng tìm kiếm những dấu hiệu chứng tỏ rằng Hoa Kỳ và các nước đồng minh cấu kết với nhau để ngăn cản sự vươn lên của Trung Quốc. Mọi sự việc đều bị chi phối bởi sự ngờ vực có tính cách chiến lược.

Chăm chú nhìn qua ống kính này, những người theo dõi tình hình Trung Quốc phát hiện một sự thay đổi. Ông Richard Armitage, Thứ Trưởng Ngoại Giao dưới thời Tổng Thống George W. Bush nói: “Chính sách ngoại giao thân thiện đã qua rồi.” Yukio Okamoto, một chuyên viên về an ninh Nhật Bản nhận xét rằng: “Khát vọng quyền lực của Trung Quốc đã quá rõ rệt”. Những nhà ngoại giao yêu cầu được giấu tên tuổi nói về những ngờ vực và lo ngại trong sự giao tiếp với Trung Quốc. Mặc dù sự liên lạc hàng ngày giữa các bộ của hai chính phủ vẫn trôi chảy, nhưng “sự ngờ vực chiến lược giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ tiếp tục gia tăng” theo nhận xét của chuyên gia về Trung Quốc Boonie Glaser của Trung Tâm Nghiên Cứu chiến Thuật và Quốc Tế (Centre for Strategic and International Studies) tại Washington-DC.

Chẳng có gì là bất khả vãn hồi với sự suy thoái ngoại giao này, hòa bình vẫn còn ý nghĩa. Trung Quốc phải đối phó với những vấn đề to lớn ở trong nước. Trung Quốc hưởng lợi từ thị trường Hoa Kỳ và liên hệ tốt đẹp với các nước láng giềng, cũng giống như vào năm 2001. Đảng Cộng Sản Trung Quốc và những nhà lãnh đạo Tòa Nhà Trắng dù thuộc bất cứ khuynh hướng chính trị nào cũng đều thu thập được nhiều lợi ích từ phát triển kinh tế hơn bất cứ cái gì khác.

Những nhà lãnh đạo Trung Quốc hiểu rõ điều này. Vào tháng 11/2003 và tháng 2/2004, Bộ Chính Trị của Trung Quốc đã nhóm những phiên họp đặc biệt về sự hưng thịnh và suy thoái của các quốc gia kể từ thế kỷ 15. Những chính trị gia Hoa Kỳ dư hiểu biết rằng mặc dù việc đối phó với một Trung Quốc hùng mạnh sẽ khó khăn, việc đối phó với một nước Trung Quốc bất mãn và hùng mạnh sẽ vô phương.

Tuy nhiên ngày nay nhiều yếu tố trên nhiều mặt, từ chính trị nội bộ đến hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chánh, kết hợp lại làm cho mối quan hệ trở nên tồi tệ hơn. Nguy cơ không phải là chiến tranh – vào giai đoạn hiện nay điều này hầu như không ai nghĩ đến việc này, chỉ vì rủi ro quá to lớn, rất bất lợi cho mọi người. Mối nguy là các nhà lãnh đạo Trung Quốc và Hoa Kỳ sẽ tạo ra nền tảng cho sư đối kháng sâu đậm trong thập niên sắp tới. Điểm này được Ông Henry Kissinger mô tả rành mạch nhất.

Khía cạnh đen tối

Dưới thời Tổng Thống Richard Nixon, Ông Kissinger đã tạo điều kiện cho 40 năm hòa bình ở Á châu bởi nhìn thấy rằng Hoa Kỳ và Trung Quốc cùng hưởng lợi khi hợp tác làm việc với nhau thay vì cạnh tranh lẫn nhau. Ngày nay, ông Kissinger lo âu. Tại buổi họp của Viện Nghiên Cứu Quốc Tế về Chiến Lược (International Institute for Straregic Studies) vào tháng 9 vừa qua, Ông Kissinger nhận xét rằng đưa Trung Quốc vào trật tự thế giới còn khó hơn là đưa Đức quốc vào cách đây một thế kỷ.

Theo Ông Kissinger: “Đây không phải là một vấn đề kết hợp một quốc gia thuần nhất mà là một cường quốc to lớn phát triển toàn diện… Vòng xoắn DNA của cả hai quốc gia có thể tạo ra một mối quan hệ thù nghịch ngày càng lớn rất giống như hai nước Đức và Anh chuyển từ bạn sang thù… Washington hoặc Bắc Kinh đều không thực tập một quan hệ cộng tác trong sự bình đẳng. Những nhà lãnh đạo của hai nước không có một nhiệm vụ nào quan trọng hơn là thực thi chân lý cho thấy không bao giờ một nước này có thể chế ngự nước kia và sự xung đột giữa hai nước sẽ làm kiệt quệ xã hội và di hại cho triển vọng hòa bình thế giới.”

Không có nơi nào mà sự kình địch chớm nở lại rõ rệt nhất giữa quân lực của Hoa Kỳ và quân lực của Trung Quốc, một lực lượng đang được hiện đại hóa nhanh chóng. Về toàn bộ, quân lực của Hoa Kỳ siêu việt hơn nhiều. Nhưng quân lực của Hoa Kỳ sẽ không còn có thể chiến thắng một cách dễ dàng ở trong vùng duyên hải của Trung Quốc.

The Economist
Nguyễn Quốc Khải dịch

Fwd: Mượn nước đẩy thuyền - (xin phổ biến rộng trên các diễn đàn)

 Người Việt hải ngoại làm dân chủ còn quá chia rẽ. Chúng ta không biết dùng thế "Mượn nước đẩy thuyền"


Mấy tin dồn dập gần đây cho thấy vấn đề gì?

Sự chuẩn bị đại hội đảng CS, Ngàn Năm Thăng Long, TC sắp đặt quân đội tại các chiếnh điểm lưỡi bò, mới đây họ giàn trận tại Myanmar. Xung đột bắc Hàn nam Hàn, sự chuẩn bị tiến công của Nam Hàn và Mỹ. Mỹ cùng Nhật và khối âu châu, LX, sẵn sàng giàn trận tại Á Châu. Canada và các nước dân chủ đồng loạt khoe về các vũ khí tối tân, không quân, máy bay mới v.v.

Vấn đề tại vùng Thái Bình Dương, riêng vấn đề VN. chúng ta phải thấy cái ánh sáng đang hé lộ, chúng ta đã sống trong tối, chờ sáng bấy lâu nay, khi chúng ta biết ánh sáng chổ nào, tại sao chúng ta không cùng xé màng cái chổ sáng đó, thì nó sẽ rách toẹt màng đêm?

Nói cách khác là chúng ta biết rằng bấy lâu nay VC đã lội ngược giòng, bổng dưng bây giờ giòng nước nó đang suôi, chúng ta phải đẩy cho nó chạy theo giòng luôn, khi giòng nước quá mạnh, thì không còn gì kéo nó lại được

Nguyễn Chí Vịnh đang muốn kéo, bướng lại, nhưng con thuyền đang được chuyển hướng, chỉ cần chúng ta xoay thêm chút nữa là được.

Đó là, lý do tại sao Mỹ vào VN lúc này? Bởi vì chính VC đã muốn xoay chiều, nhưng tất nhiên bên trong còn những cái gai phá hoại. Nhưng mà Mỹ đã vào được rồi, thì chứng minh thế lực VC theo Mỹ đang mạnh như thế nào. Ngay lúc này cũng là lúc các nhà dân chủ, tập thể đấu tranh trong nước nói chung đang chờ cơn biến động chính trị hay cơn biên động từ lãnh đạo?

Nói về biến động chính trị, chỉ có hai việc có thể xãy ra, là thay đổi từ cấp trên bộ chính trị VC theo xu hướng Mỹ qua đại hội kỳ tối, hoặc là Mỹ và Nam hàn tấn công Bắc triều tiên. Cả hai xu thế này sẽ làm đà đẩy cho sự tự do VN. Lý do là khi Nam Hàn và Mỹ tấn công Bắc Hàn, TQ phải nhún tay, nhưng khi TQ nhún tay thì cả thế giới nhún tay, nhất là các nước láng giềng TQ bao vây TQ sẽ phòng thủ ranh giới của họ, vì thế TC không thể nào tấn công bất cứ lãnh thổ nước nào cả ngoại trừ VN, Lào, Campuchia và Thái Bình Dương là cái cửa chính cha âm mưu bá đạo của Hán tộc.

Về hai vấn đề biến động chính trị của VC theo xu hướng Mỹ, là thực tế nhất, còn vụ Triều Tiên là kình địch thôi. Thực tế nhất chúng ta quan tâm là biến đổi chính trị của VC sắp tới. Nhưng chúng ta không thể chờ, mà theo qui luật phát triể dân chủ, là phải chủ động.

Các thế lực đấu tranh biết rõ là không có quân đội, không có gì cả, ngoại trừ lòng dân. Mà lòng dân thì đã có sẵn, nhưng không biết đẩy mạnh lòng dân thành thực tiễn để thay đổi VC mà thôi.

Đó là tuyên truyền, Giai đoạn này là tất cả chúng ta phải tập trung tuyên truyền. Tuyên truyền bằng mọi cách để đẩy mạnh thế lực dân chủ trong nước. Chứ chúng ta không đẩy mạnh thế lực cấp tiến của VC, vì sẽ bị gây hoang mang CĐ, thậm chí còn mang họa vào thân là "bọn hòa giải". Lúc này, chúng ta không chê, chửi VC gì cả, mà làm cho lòng dân sôi sục lên, sự biết động là phải nhờ vào sức tập trung đoàn kết tuyên truyền về mọi mặt đòi hỏi tự do dân chủ. điểm cần thiết là cho cả nước VN thấy sự biến động đang xãy ra, để từ đó, chúng ta giúp thống nhất được các lực lượng sau:
- Sinh viên, chuyên gia, thương gia trong nước nói chung theo xu hướng ủng hộ Mỹ vào VN. Từ đó các thế lực dân chủ sẽ mạnh miệng hơn đòi hỏi tự do v.v.v
- Các thế lực dân chủ và đòi hỏi tự do tôn giáo và dân quyền cần trợ lực thật sự, dù là Phật Giáo, Hòa Hảo, Thiên Chúa, hay Ngư Dân, Nông Dân đòi đất nói chung. Phải kết hợp tất cả các tiếng nói này thành một. Lý do là gần đây, có một vài tổ chức tại hải ngoại chỉ đòi hỏi cho Thiên chúa giáo, thậm chí, họ còn cố tình làm lỏng, nhạt đi các thế lực dân chủ và đòi tự do dân chủ của các nhóm Phật Giáo. Tại sao? cũng vì tranh chấp tôn giáo. Đừng tưởng rằng vụ "Về Nguồn" chỉ đơn giản do thế lực Quốc Doanh cố tình gây chia rẽ, mà phải xem lại bản chất tuyệt tình của các phe tôn giáo khác cố tình chỉ muốn đưa ngoại đạo của mình tiép tục làm Quôc Giáo sau này theo chiều hướng của triều Ngô.

Nói tóm lại, khi các thế lực tập trung, từ dân, tới các nhà dân chủ nói chung, thì bên trong sẽ tự động làm cho phe VC thân Mỹ sung sức. Khi đó, đám thân TC phải kêu gọi đàn áp mạnh hơn cả, phải cố gắng bẽ thế Việt Mỹ từ trong nước tới hải ngoại này. Nhưng điều chúng ta muốn là phải làm mọi các cho Việt-Mỹ kết giao, tai sai Trung Cộng trong các bộ ngành quốc phòng VN, công an không thể có chổ đứng, thì VN mới sớm có ánh sáng rõ hơn, chúng ta đang chỉ cố cào, xé để tìm có ánh sáng, mà thấy ánh sáng rồi, không tập trung đâm vào chổ đó, lo xé chổ khác không thấy lối ra, thì bao giờ tập trung được sức mạnh?

Vì thế, ngay lúc này, tuyên truyền, và tập trung tuyên truyền là cần thiết, Đó là, tập trung tuyên truyền để đẩy mạnh xu thế cho Việt-Mỹ kết giao quân đội, và chiến lược biển đông mạnh hơn. VC đang làm việc đó, VC đang muốn thay đổi chính trị, nhưng trong thế ôn hòa, nhưng trong ôn hòa đó, lại có đám muốn bạo động là phe thân TC. Vì thế, khi VC thay đổi, mà có Mỹ vào rồi, là thuyên đang chuyển hướng Nam, bây giờ có gió bắc cản, thì nên có hải ngoại thổi mạnh hơn, thổi cho nó áp đặt cả giớ bắc có đúng không?

Muốn được vậy, chúng ta không có hòa hợp hòa giải với VC, mà đẩy cho dân chủ và lòng dân mạnh lên. Để phe VC muốn làm dân chủ thật sự có sức ép mạnh mẽ để thay đổi trong kỳ đại hội đảng này. Và tất nhiên chúng ta không cần nghĩ nhiều cũng biết rõ, là họ cũng vẫn muốn bảo vệ quyền lợi đảng trên hết. Vậy thì làm sao?
1. Cần phe Nam theo gió nam
2. Gió nam phai cầm cán.

Vậy gió nam cầm cán là cái gì? Là thực hiện cho được "Hiến Pháp" mới và "bộ luật dân quyền".

(Chúng ta không đòi bỏ điều bốn hiến pháp bởi vì VC không bao giờ bỏ, nếu tốt lắm VC có thể làm là đại hội kỳ tới họ sẽ tuyên bố là "đợi cho kỳ sau sửa đổi hiến pháp", thế là phải đợi tiếp có đúng không?, chúng ta, toàn dân không thể đợi, mà phải hình thành hiến pháp mới.) Nhưng muốn có hiến pháp, phải có các phong trào chính đảng trong nước kết hợp, mà muốn kết hợp, phải có bản quyết nghị chung, ít nhất bản này sẽ được hình thành như một quyết nghị đấu tranh dân chủ, thậm chí cả VC sẽ phải chấp nhận ủng hộ, đó là những người cánh Nam. Nhưng bao giờ đến? Trước đó nữa là phải có sự đòi hỏi chung.)

Vậy thì cái sự đòi hỏi chung cụ thể nhất là gì?
Là phải đòi hỏi kết quả

Nhưng biểu tình, tuyệt thực, đòi dân chủ, đòi trả lại đất, trả lại công bằng. VC có trả không? không? Và cũng không phải là kết quả cụ thể, nó chỉ là tác động của VC đàn áp, sự đàn áp, và dân tộc ta phản hồi đòi hỏi vì bị áp bức quá. Mà có kết quả không.

Chắc chắn là không. Bởi vì chiêu của VC là bắt thả, thao, túng. Để tất cả bận rộn đòi hỏi theo phản xạ tự nhiên.

DÂN TỘC SINH TỒN là phải đòi hỏi cụ thể và vượt hẳn khỏi sự phản hồi.

Vậy thì là đòi hỏi cái gì. Đòi hỏi luật Civil Rights!


Đó là mục tiêu toàn dân phải đạt nếu muốn dẹp VC, thay đổi hiến pháp, xóa bỏ độc tài.Và để Dân Tộc Sinh Tồn và Độc Lập Tự Do, Dân Chủ Phát Triển phồn thịnh.

Nói rõ hơn là tất cả phải cùng nhau đòi luật dân quyền. Khi VC đang nói "Nhân Quyền", thế giới tôn trọng Nhân Quyền, dân tộc ta không thể cạnh tranh vì không có dân quynề. Thì chúng ta phải có luật Dân Quyền.

Luật Dân Quyền là kết quả cụ thể nhất, trước nhất mà các phong trào dân chủ phải đòi hỏi. Khi dân trong nước có luật dân quyền, là tránh được bị CA đàn áp. Các đảng phái sẽ hòa hợp nhau trong cạnh tranh quyền lực. Các phong trào, tổ chức, và Luật Sư là chính, là những người đem tác động cụ thể nhất đến cho công cuộc đòi dân quyền VN.

VN không có luật dân quyền, chỉ có luật hình sự, vì thế, không bao giò có cái tội là nhà nước đàn áp dân. Chỉ có dân phạm tội. Dù hiền tù cũng là là tội phạm, giết người cũng là tội phạm.

Vì thế, chỉ có luật dân quyền mới phân biệt được "tội phạm" và "bị đàn áp".

Các vị nên nghiên cứu bộ luật dân sự của Canada và Mỹ. Về Civil Rights, và Criminal Code. Trong Criminial Code, ghi rõ các tội trạng phá hoại xã hội, như trộm cướp thì bị tù. Còn Civil Rights ghi rõ về quyền người dân trong thể chế dân chủ. Cái này, VN không có. Vì thế, dù là tu, hay làm chính trị đối lập đều bị án "Tội phạm" như những người trộm cướp. Thậm chí cả trên mặt tuyên truyền VC dùng điểm lợi này ghép cho các hành động dân chủ là hành động đòi trụy, dâm ác như bao tên ác khác. Tại sao? Tại vì VN không có Civil Rights. Và chúng ta phải hình thành Civil Rights. Có Civil Rights, có toàn dân chấp nhận, thì dù cho VC có trấn áp, thì cũng sẽ đi ngược giòng chính của nhân dân. Khi VC từ khước Civil Rights, là VC trở thành tội phạm của toàn dân. Lúc đó, VC chỉ dùng luật tội phạm ghép cho dân, nhưng dân áp dụng Civil Rights để dẹp VC. Đây là dùng luật chế luật.

Tuyên truyền lúc này cho nên nói, là nói tới luât. Phân tích luật, đòi luật, đoàn kết dân bằng luật, dẹp VC bằng luật, bởi vì, chính VC đang đàn áp dân cũng là họ "chơi Luật".

Khi thực hiện công cuộc đòi hỏi đó, ai làm gì?

Bây giờ chúng ta phải rõ hơn, là giữa hai cánh đấu tranh. Đạo pháp, và Luật pháp.

Các tổ chức tôn giáo sẽ phải chỉ đạo về mặt đạo pháp, đó là cánh tay nung đút cho tinh thần dân tộc và phát triển nghị lực đấu tranh của toàn dân.

Các tổ chức luật sư, các nhà kinh tế, ngoại giao, trí thức phải kết hợp đấu tranh thực hiện các đạo luật cụ thể nhất để bênh vực cho toàn dân, thậm chí, thay đổi chế độ mới cũng cần phải thực hiện thi hành Luật là cách ôn hòa nhất.

Thế thì, Đạo, và Luật, cái nào Chính, cái nào Phụ?

Theo binh pháp tây phương, và cả đông phương.

Nếu phong trào đ'âu tranh không có chính phụ tương trợ, tất bị chia rẽ, khi bị chia rẽ, thì phong trào đó thất bại.

Ví dụ, khi cha Lý chống cộng. Cha Lý đang đấu tranh đòi "đạo", hay "luật".

Cha đòi "đạo" được tự do, ai cho Cha Tự Do? xin à, "VC KHOAN HÔ`NG". à "kHOAN HÔNG" LÀ "ĐẠO". nHƯNG VC dùng "luật" để trấn áp Cha.

Khi chị Lê Thị Công Nhân đòi dân chủ, chị đòi đạo, hay luật? chị đòi Luật. Nhưng luật nào sẽ bảo vệ chị? Chị lại chờ "đảng khoan hôồg". Thế là VC dùng đạo. Cả hai, Đạo đức, và Luật pháp, VC đều dùng. Còn phía đòi dân chủ chưa có Luật nào để bảo vệ, mà chỉ đòi đảng Khoan Hồng.

Vậy có phải là chúng ta không có đấu tranh đòi hỏi kết quả cụ thể có đúng không? Cho nên mới yếu hoài.

Nói rõ ở đây, vì sao Đức Trần Hưng Đạo, có thể qui tụ được toàn dân?

Có phải ông đã ra lời tuyên bố "hịch tướng sĩ" như một quyết nghị chung kêu gọi toàn dân toàn đảng kết hợp?

Chưa đủ, thời thế loạn hay dân phóng túng? Chính ngài kêu dân và tướng mọi địa phương phải học quyển sách "Hưng Đạo Binh Pháp" ? Đó là "Luật".

Thời nay, chúng ta có "Nghị quyết chung" không?, chúng ta có "Luật" nào để chúng ta áp dụng để "trị" bọn bán nước không?
Không, vì thế mà yếu.

VC đối với dân trong nước có cả trăm nghị quyết để giết dân. hải ngoại chúng có NQ36. Và chúng chỉ có một luật duy nhất là "hình sự".

Còn dân chủ không có nghị quyết chung, không có "luật" nào cả. Theo chỉ đa.o đấu tranh, nếu bên nào có bên đó mạnh, bên nào không có, bên đó bị trấn áp.

Chúng ta nên biết thế thượng giòng của Mỹ, và thế giới đang chèn ép TC khi TC quá xấc xược muốn độc bá biển đông. Dù là vì dân tộc, hay đảng. ngay cả VC cũng không phải là không có người muốn đẩy thuyền theo hướng tốt. Đó là điểm chung mà tất cả người Việt nói chung sẽ phải đạt đến.

Nói tóm lại, Tuyên truyền lúc này cho nên nói, là nói tới luât. Phân tích luật, đòi luật, đoàn kết dân bằng luật, dẹp VC bằng luật, bởi vì, chính VC đang đàn áp dân cũng là họ "chơi Luật". 

Thanh Niên Dân Chủ


Luận về Trung Lập Pháp Lý - Dương Thái Sơn

Luận về Trung Lập Pháp Lý

* Dương Thái Sơn

Hai chữ ''Trung Lập'' quả thật đã gây ra nhiều vấn đề vì nội dung của nó khá mông lung, nhất là đối với những người chưa nắm vững các ý niệm về Trung Lập trong Quốc tế Công pháp. Theo tự nguyên thì Trung Lập có nghĩa là đứng ở giữa, tức là không thiên về bên nào. Giản dị là như vậy. Nhưng trên thực tế nó không giản dị như vậy, vì nó bao gồm một ý nghĩa rộng lớn từ một thái độ đứng giữa cho đến một qui chế đứng giữa của một quốc gia.

I/- Ba khái niệm liên hệ đến chữ Trung Lập.

Có ba khái niệm liên hệ đến chữ Trung Lập m?? chúng ta cần phân biệt là : Trung lập sách, Trung lập chế, và Trung lập hóa.

A/- Trung lập sách (Neutralism): Đây là chánh sách trung lập, cũng gọi là chánh sách phi liên kết. Ở đây hai chữ cần nhấn mạnh là Chánh Sách. Vì là chánh sách nên có thể thay đổi bất cứ lúc nào theo ý của nhà cầm quyền đương nhiệm, hoặc có thể thay đổi cùng với sự thay đổi chánh quyền, như chúng ta thường nghe nói chánh sách đối ngoại của Tổng Thống Nixon hoặc chánh sách đối ngoại của Tổng Thống Clinton,v.v.. Như vậy chánh sách Trung Lập chỉ nhằm nói lên một chánh sách giai đoạn của một chánh quyền chứ không phải là một qui chế vĩnh cửu của quốc gia.

B/- Trung Lập Chế (Neutrality): đó là qui chế trung lập pháp lý vì nói đến qui chế tức là nói đến một nền tảng pháp lý mà trong đó đương sự có những quyền lợi và cũng có những nghĩa vụ nữa. Một quốc gia đã theo qui chế trung lập pháp lý thì chánh quyền không thể dễ dàng thay đổi qui chế của quốc gia như là thay đổi chánh sách. Qui chế Trung lập pháp lý có thể được thiết lập trong hai trường hợp:

1/- Do quốc gia tự tuyên bố và đòi hỏi các quốc gia trong cộng đồng quốc tế công nhận, như trường hợp của nước Áo năm 1955. Sự tuyên bố và công nhận đó tạo thành một qui chế trung lập pháp lý vĩnh viễn (hay thường trực) của quốc gia. Đây là trường hợp mà GS. Nguyễn Ngọc Huy rất mong muốn cho nước Việt Nam.

2/- Các quốc gia trong Cộng đồng quốc tế (thường là do siêu cường chi phối) quyết định một quốc gia nào đó hoặc một vùng lãnh thổ nào đó đặt dưới qui chế Trung lập pháp lý mà quốc gia đương sự phải chấp nhận. Thí dụ như qui chế trung lập pháp lý của nước Lào theo Hiệp định Geneve năm 1962.

C/- Trung Lập Hóa (Neutralize): đây là tiến trình đưa một quốc gia hay một vùng lãnh thổ vào qui chế Trung lập pháp lý (tất nhiên phải có sự công nhận và bảo đảm của cộng đồng quốc tế).

II/- Nội dung của Qui chế Trung lập Pháp lý.

Nội dung này bao gồm một số quyền lợi v?? một số nghĩa vụ. GS. Nguyễn Ngọc Huy đã viết về nội dung đó như sau:

''Cũng như các qui tắc khác thuộc quốc tế công pháp, các qui tắc dính dáng đến qui chế trung lập pháp lý không phải minh xác và có tính cách cưỡng chế tuyệt đối như các luật lệ nội bộ của một quốc gia. Bởi đó, trong sự áp dụng qui chế trung lập pháp lý, các quốc gia có thể có những lề lối giải thích khác nhau về phạm vi nghĩa vụ và quyền lợi của quốc gia theo qui chế trung lập pháp lý vì đó mà hoàn toàn không phải minh bạch. Tuy nhiên, vẫn có những điểm chánh yếu m?? mọi quốc gia đều phải công nhận trên lý thuyết cũng như trên thực tế. Nói chung lại thì các nghĩa vụ về quyền lợi của một quốc gia theo qui chế trung lập pháp lý có thể gom về hai lãnh vực quân sự và kinh tế. Về mặt quân sự, các quốc gia đã có một lập trường như nhau nên phạm vi nghĩa vụ về quyền lợi của quốc gia theo qui chế trung lập pháp lý rất rõ ràng. Nhưng về mặt kinh tế, các quốc gia đã có những lối giải thích rộng hẹp khác nhau về một số nguyên tắc nên phạm vi nghĩa vụ về quyền lợi của quốc gia theo qui chế trung lập pháp lý vẫn còn có những chỗ mù mờ dọn đường cho những sự tranh chấp.'' (1)

Từ nhận định về nội dung đó, GS. Huy đã nói một cách cụ thể hơn cho nước Việt Nam như sau:

''LMDCVN chủ trương theo qui chế Trung Lập Pháp Lý như Thụy sĩ, Thuỵ Điển hay Áo. Chủ trương này khác với chủ trưong theo Chánh sách Trung Lập cũng được gọi là Chánh sách phi liên kết. Trong thực tế, các nước tự xưng là theo chánh sách trung lập hay phi liên kết phần lớn đã theo hẳn siêu cường này để chọi siêu cường kia. Trong khi đó, qui chế trung lập pháp lý mà Liên Minh chủ trương là một qui chế được quốc tế nhìn nhận. Quốc gia theo qui chế này không liên minh quân sự với bất cứ nước nào khác, không để cho bất cứ nước nào khác dùng lãnh thổ mình để tấn công nước thứ ba, và đứng ngoài các cuộc tranh chấp võ trang giữa các nước khác. Chủ trương trung lập theo qui chế pháp lý quốc tế phù hợp với chủ trương hòa bình. Nó không ngăn cản dân tộc Việt Nam tự võ trang để tự vệ, chỉ đòi hỏi dân tộc Việt Nam khước từ dùng võ lực để xâm lấn nước khác hay tham dự các cuộc tranh chấp võ trang giữa các nước khác.'' (2)

III/- Lợi ích của qui chế trung lập pháp lý đối với Việt Nam .

Có những lợi ích sau:

1/- Vị trí nước Việt Nam nằm tại ngả tư quốc tế Đông Nam Á, qui chế trung lập pháp lý sẽ tạo một địa bàn mở ngỏ và ổn cố cho các nước đến Việt Nam giao dịch trên mọi phương diện, tạo cơ hội cho nước VN phát triển về mọi mặt trong tương quan đa phương, đa quốc, đa diện, đa sắc, để hình th??nh một địa vị lý tưởng cho một quốc gia lý tưởng.

2/- Tránh đưa Việt nam vào vị trí tiền đồn chiến tranh trong tương lai (một kinh nghiệm đã quá đau thương trong quá khứ). Ngày nay, mặc dù chiến tranh lạnh giữa Tư Bản và Cộng Sản không còn nữa, nhưng những chiến tranh khác trong tương lai giữa các siêu cường Á Châu với nhau hoặc giữa các siêu cường Á Châu và siêu cường Tây phương có thể xảy ra.

IV/- Sự áp dụng qui chế trung lập pháp lý vào thực tế.

Trên thực tế, một số quốc gia tuyên bố theo chánh sách trung lập, nhưng thật sự họ đã không giữ thái độ trung lập mà họ đã thiên bên này hoặc thiên bên kia, hậu quả là họ không còn giữ được uy tín trung lập (như Ai Cập, Nam Dương, Nam Tư).

Một vài quốc gia khác từ chủ trương Trung lập sách họ muốn tiến tới qui chế Trung lập pháp lý cho quốc gia họ như nước Miên hồi thời Ông Sihanouk còn làm Quốc Trưởng thời trước 1970. Ông Sihanouk đã từng lớn tiếng kêu gọi thế giới phải công nhận và tôn trọng nền Trung lập của nước Miên. Nhưng chính ông đã phản bội nền trung lập đó khi ông chứa chấp Bộ Đội Cộng sản Bắc Việt và MTGPMN lập căn cứ trên đất Miên để chống VNCH, và hậu quả là nước Miên bị sa vào cuộc chiến từ lân bang đưa đến. Nếu ngày xưa, ông Sihanouk thi hành đúng qui chế trung lập pháp lý mà ông đòi hỏi thì nước Miên đã khác, đã thành một nước huy hoàng, phát triển, hòa bình và thịnh vượng. Việt Nam ta nên học bài học Trung lập pháp lý của ông.

Đối với nước Việt nam ngày nay, sự áp dụng qui chế trung lập pháp lý không phải dễ mà cũng không phải khó.

a)- Các hoàn cảnh trở lực cho sự thực hiện này là:

1/- Đảng CSVN vẫn còn đầu óc lệ thuộc (hết thuộc Nga lại thuộc Tàu, rồi đây sẽ thuộc Mỹ).

2/- Một số người Việt Nam kể cả người Việt quốc gia ở hải ngoại chưa ý thức được tương lai phát triển chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa,.. . của đất nước phải theo phương hướng nào: phương hướng địa lý chính trị tự lập hay phương hướng lệ thuộc Khối. Phương hướng lệ thuộc Khối vẫn còn mạnh mẽ trong tâm lý người Việt. Phương hướng này sẽ biến Việt Nam thành tiền đồn của Khối này để chống lại Khối nọ về đối ngoại. Còn về đối nội, người VN sẽ tiếp tục bị phân hóa trong tiến trình kết Khối để chống nhau đó. Đây là bài học lịch sử quá đau thương mà người Việt Nam cần phải suy nghĩ.

3/- Các siêu cường đang tranh giành Việt Nam (do sự cầu cạnh và hiến mình của CSVN) sẽ không muốn Việt Nam thành Trung lập pháp lý và thoát khỏi tay mình.

b)- Các hoàn cảnh thuận lợi là :

1/- Sau khi CS Liên Xô và Khối Đông Âu sụp đổ, đây là cơ hội để Việt Nam thoát khỏi quỹ đạo kềm kẹp của hệ thống Cộng Sản quốc tế, để tự mình chọn lấy một qui chế địa lý chính trị tự lập cho quốc gia mình và tránh xa tranh chấp của các siêu cường.

2/-Nếu chánh quyền Việt Nam chấp nhận thiết lập qui chế trung lập pháp lý cho quốc gia sẽ được hậu thuẫn của mọi người VN và của quốc tế, đó là cơ hội và cũng là môi trường để thực hiện đại đoàn kết quốc gia, thống nhất dân tộc Việt Nam hiện ở rải rác khắp nơi trên thế giới và đang thuộc nhiều khuynh hướng chính trị, tạo được sức mạnh Phù Đổng của dân tộc để tái thiết đất nước, củng cố thêm vị trí trung lập của mình tại ngả tư Đông Nam Á Châu. (Điều này đòi hỏi CSVN phải đặt quyền lợi đất nước và dân tộc lên trên quyền lợi đảng và quyền lợi bản thân).

3/- Thời cơ thuận lợi nhất là lúc Liên Xô sụp đổ, Trung Quốc và Việt nam còn chống nhau và Việt nam muốn mở cửa giao thiệp với Tây Phương và nhất là còn đang tìm cách xin thiết lập bang giao với Hoa Kỳ (tức là từ 1990 đến 1993). Tuy vậy, thời điểm hiện nay cũng chưa phải là muộn.

4/- Hiện nay, Hoa Kỳ và Trung Quốc đều không muốn đụng độ trực tiếp với nhau, nhưng cả hai đều không muốn mất quyền lợi kinh tế ở Việt Nam. Nếu Việt Nam biết khai thác hoàn cảnh này để trước một Hội Nghị quốc tế nào đó (như Hội Nghị APEC chẳng hạn) đưa ra chủ trương nước Việt Nam trung lập pháp lý và kêu gọi quốc tế thừa nhận để bảo đảm quyền lợi chung cho tất cả các nước trong tương quan đa quốc. Đây là một triển vọng, nếu Việt Nam biết nắm lấy.

* * Một câu hỏi đặt ra là : Nếu Việt Nam không liên kết với Khối Tây Phương nhất là Hoa kỳ thì làm sao Việt Nam có đủ sức chống lại sự xâm lăng của Trung Quốc ?

Ai cũng biết rằng Trung Quốc là kẻ mạnh, còn Việt Nam là kẻ yếu nên lúc nào cũng lo sợ kẻ mạnh lấn hiếp. Nhưng nếu đi nhờ Hoa Kỳ (hay nước nào khác) để chống lại Trung Quốc thì coi chừng bị hỏng giò như trường hợp VNCH trước đây. Câu hỏi là Hoa Kỳ có thực sự muốn đụng độ trực tiếp với Trung Quốc để bảo vệ Việt Nam không? Câu trả lời có lẽ không khó.

Muốn chống xâm lăng trước hết phải trông cậy ở sức mình, sức mạnh quân sự, sức mạnh kinh tế, và sức mạnh chính trị. Muốn có sức mạnh Phù Đổng này cần phải có Chính trị dân chủ và kinh tế tự do để phát triển đất nước và đoàn kết nhân dân. Còn trông cậy Hoa Kỳ (hay nước nào khác) đánh giặc thế cho ta để bảo vệ đất nước ta và sự tự do của ta, đó là một bài học đẫm máu, nước mắt và tù đày mà người Việt Nam đã học trong những thập niên qua. Thử hỏi có bao giờ Hoa Kỳ mang quân đi đánh Trung Quốc để đòi lại Hoàng Sa, Trường Sa cho Việt Nam không ? Người sáng suốt tất nhìn thấy sự liên minh quân sự chỉ có lợi cho nước lớn mà không có lợi cho nước nhỏ. Nước nhỏ có thể bị bỏ rơi hoặc bị bán đứng vì sự nhượng bộ quyền lợi giữa những nước lớn.

Muốn bảo vệ lãnh thổ hữu hiệu phải lo cho quốc phú dân cường, và đoàn kết được toàn dân dưới lá cờ chánh nghĩa của Quốc gia lý tưởng mà mọi người dân đều mong muốn để phụng sự, chứ không có nước nào muốn liều chết để bảo vệ lãnh thổ cho chúng ta cả. Đó là một chân lý lịch sử.

Thời nhà Lý, nhà Trần, thời nhà Lê, và thời Nguyễn Tây Sơn, đâu có cường quốc nào hậu thuẫn chúng ta, thế mà nhờ đoàn kết được toàn dân, tổ tiên chúng ta vẫn chống được kẻ xâm lược.

Nói tóm lại, muốn bảo vệ được đất nước, cần phải phát triển đất nước về mọi mặt: kinh tế, quân sự, ngoại giao, và lãnh đạo được lòng dân. Muốn được như vậy phải có tự do dân chủ là bước đầu tiên; không có bước đầu tiên tốt đẹp này, tương lai đất nước sẽ mịt mờ trước nạn ngoại xâm, và liên minh quân sự sẽ dẫn đến một cái tròng nô lệ khác.

* Dương Thái Sơn

1 Nguyễn Ngọc Huy, Sách Tài Liệu Huấn Luyện LMDCVN, Tổng Bộ Tuyên Huấn ấn hành, Hoa Kỳ, 1990, trang 494.

2 Sách đã dẫn, trang 550.

 

 

NGUỒN GỐC CHỮ QUỐC NGỮ VỚI ĐẮC LỘ- ALEXANDRE DE RHODES

Văn tự là chữ viết. Đó là những ký hiệu qui ước, dùng để diễn tả tư tưởng, hoặc ghi nhận những sự việc trong cuộc sống của con người. Quốc ngữ là loại chữ viết được dùng chung cho một nước.

1- LƯỢC SỬ VĂN TỰ VIỆT NAM
Thuở xưa, từ thời vua Hùng Vương lập quốc Văn Lang, có lẽ, nước ta chưa biết đặt ra chữ viết, cho nên, lịch sử đã không ghi nhận những dấu vết về chữ viết nguyên thuỷ của Việt Nam. Mãi đến lúc Hán tộc phát triển, và cai trị nước ta, các quan Thái Thú Trung Hoa khuyến khích dân ta học chữ Hán (còn gọi là chữ Nho). Đến khi nước Nam ta giành được quyền tự chủ, không còn lệ thuộc người Trung Hoa, các vua quan ta vẫn dùng chữ Nho làm văn tự căn bản, trong việc hành chánh và thi cử. Mặc dù, chữ Nho học viết từ chữ của người Trung Hoa, nhưng dân ta có cách đọc phát âm riêng biệt.
Mãi về sau, tổ tiên ta, dần dần, dựa trên căn bản chữ Nho, mà biến chế ra một loại văn tự riêng biệt của nước Nam ta, được gọi là chữ Nôm (do chữ Nam đọc trại ra). Vì dựa trên căn bản chữ Nho, cho nên, chữ Nôm có hình dạng tương tự như chữ Nho. Có những chữ Nôm được mượn hẳn từ chữ Nho, hoặc dùng âm của chữ Nho mà ý nghĩa lại khác. Có những chữ Nôm được thành lập bởi việc dùng nghĩa của chữ Nho nầy phối hợp với âm của một chữ Nho khác. Do đó, muốn học chữ Nôm, người ta cần phải biết chữ Nho trước.
Vào đầu thế kỷ 17, các nhà truyền giáo Tây phương đến Việt Nam, và bắt đầu giới thiệu đạo Thiên Chúa cho dân ta. Để truyền đạo hữu hiệu, việc dùng chữ viết là một yếu tố rất quan trọng, trong việc tìm hiểu phong tục tập quán của dân bản xứ, cũng như việc phổ biến tư tưởng, giáo lý kinh sách cho người học đạo. Lúc bấy giờ, các giáo sĩ nhận thấy chữ Nho và chữ Nôm quá phức tạp để học, đối với đại chúng bình dân. Cho nên, một nhóm tu sĩ dòng Tên, cùng với các thầy giảng người Việt Nam đầu tiên, đã ra công nghiên cứu, áp dụng các mẫu tự Latinh, mà ghi chú cách phát âm tiếng Việt, để dùng trong cách giao dịch hàng ngày. Dần dần, qua nhiều năm sắp xếp và thực hành, các tu sĩ đã ghi chú được tất cả những tiếng nói của người Việt, dựa trên căn bản 24 mẫu tự Latinh (A, B, C,...). Đến khi Cố Đắc Lộ Alexandre De Rhodes góp công hoàn chỉnh chữ quốc ngữ, với đầy đủ các dấu trầm bổng như dấu sắt, huyền, hỏi, ngã, và nặng. Từ đó, chữ quốc ngữ được thêm phần hoàn hảo. Cho nên, Cố Đắc Lộ Alexandre De Rhodes đã được xem là người đại diện trong việc sáng chế ra chữ quốc ngữ Việt Nam. Sau vài thế kỷ, chữ quốc ngữ đã được phổ biến trong đại chúng, từ chính quyền, giới thượng lưu trí thức đến mọi giai tầng trong xã hội, đều chính thức công nhận chữ quốc ngữ là loại chữ thống nhất của nước Việt Nam ngày nay, dễ học, dễ viết cho mọi người, cũng như đối với người ngoại quốc, vì chữ quốc ngữ Việt Nam có cùng mẫu tự Latinh, giống như hầu hết các loại chữ của các nước trên thế giới.
2- CÁC GIÁO SĨ ĐẦU TIÊN SÁNG CHẾ QUỐC NGỮ

Theo các tài liệu về văn học chữ quốc ngữ, trước khi Alexandre DeRhodes đến Việt Nam, việc sáng chế và truyền bá chữ quốc ngữ đã được khởi xướng bởi các giáo sĩ đầu tiên như : Giáo Sĩ Francisco De Pina đã nói thông thạo tiếng Việt từ năm 1620, và là thầy dạy tiếng Việt cho Giáo Sĩ Đắc Lộ Alexandre De Rhodes. Giáo Sĩ Pina cùng với 3 tu sĩ dòng Tên (Jesuits) : -Giáo Sĩ Pedro Marques (lai Nhật), Thầy Joseph (người Nhật), Thầy Paulus Saito (người Nhật), đã soạn thảo một sách giáo lý bằng tiếng Đàng Trong (từ sông Gianh trở vào Trung). Vào năm 1621, Giáo Sĩ João Roiz viết một bảng tường trình bằng tiếng Bồ Đào Nha, trong đó có chứa nhiều chữ quốc ngữ. Năm 1621, Tu Sĩ Cristoforo Borri đã viết về lịch sử truyền giáo Đàng Tro ng bằng tiếng Ý, trong đó có nhiều chữ quốc ngữ hơn bảng tường trình của João Roiz. Năm 1626, Giáo Sĩ Luis Gaspar có viết một bảng tường trình , dài 30 trang , bằng La văn, trong đó có nhiều chữ quốc ngữ, để gởi lên Bề Trên Cả dòng Tên, Mutio Vieleschi ở Rome. Năm 1626, Giáo Sĩ Antonio De Phontes, người Bồ, và Giáo Sĩ Đắc Lộ cùng theo học tiếng Việt với Giáo Sĩ Bề Trên Francisco De Pina.
Sau Giáo Sĩ Đắc Lộ Alexandre De Rhodes, các vị Tu Sĩ sau đây đã góp công lớn vào việc truyền bá chữ quốc ngữ như : Thầy Giảng Igesiô Văn Tín, Thầy Giảng Bentô Thiện, Giám Mục Pierre Pigneau De Béhaine, Taberd, Giáo Sĩ Philippe Bình, Philippe Minh, và hai văn hữu Petrus Trương Vĩnh Ký, Paulus Huỳnh Tịnh Của.
3- TIỂU SỬ CỐ ĐẮC LỘ ALEXANDRE DE RHODES ( 1591 – 1660 )
Cố Alexandre De Rhodes có tên Việt Nam là Đắc Lộ, sinh năm 1591, tại Avignon, Pháp, là một giáo sĩ thuộc dòng Tên (Ordre Des Jésuites). Năm 1624, Ông được cử đến Việt Nam, giảng đạo tại Đàng Trong (từ sông Gianh trở vào miền Trung). Sau sáu tháng, Ông học thông thạo tiếng Việt với Giáo Sĩ Francisco De Pina, và được cử ra Đàng Ngoài (từ sông Gianh trở ra miền Bắc). Sau 3 năm truyền đạo (1627 – 1630), giáo đoàn của ông rất thành công, có rất nhiều người theo đạo, vì thế ông bị Chúa Trịnh Tráng trục xuất khỏi Việt Nam năm 1630, và đi Macao. Tuy nhiên, sau đó, ông vẫn lén lút ghé qua Việt Nam nhiều lần, để tìm hiểu phong tục tập quán, lịch sử người Việt Nam. Đến năm 1645, ông trở về Pháp. Trong thời gian 7 năm (1631 – 1647), ông đã viết được nhiều sách có giá trị, trong số đáng kể nhất là cuốn tự điển tiếng Việt, được dịch ra tiếng Bồ Đào Nha, và tiếng Latinh. Những sách viết chữ quốc ngữ của ông được xem như việc xây dựng chữ quốc ngữ đạt đến mức hoàn chỉnh, với những phiên âm rất đúng giọng, vì có thêm 5 dấu trầm bổng: sắt, huyền, hỏi, ngã, nặng. Cũng như, về cách chấm câu, văn phạm, ông đã áp dụng theo lối hành văn của tiếng Pháp. Giáo Sĩ Đắc Lộ Alexandre De Rhodes đã viết ba tác phẩm nền tảng cho chữ quốc ngữ như sau :

-Dictionarium Annamiticum, Lusitanum et Latinum (-Tự Điển An-Nam, Bồ Đào Nha, và Latinh) , in tại Roma năm 1651.
-Sử Bắc Kỳ bằng tiếng Việt và được dịch ra chữ Pháp (Linguae Annamiticae Seu Tunkinensis brevis declaratio) , năm 1652.
-Phép giảng tám ngày cho kẻ chịu phép rửa tội mà beào (vào) đạo thánh Đức Chúa Blời (Trời), năm 1652 ./.
Tác giả Âu Vĩnh Hiền (trích Hồn Quê)
Vietnamese Alphabet
Qúoc Ngú: A New Dimension for the Roman Alphabet

Vietnam was the only country of southeast Asia more influenced by China than by India, having been a province of China for over 1000 years. Only Chinese was written until, in the ninth century A.D., some Vietnamese wanted to write their literature in their own language. They adapted Chinese characters to Vietnamese, but in a haphazard way.

Nevertheless, this writing, called Nôm, or Chú Nôm, "script of the spoken language," was a way to write their own language.
Europeans began coming to Vietnam in the sixteenth century. To learn Vietnamese, they tried writing it in Roman alphabets.
Alexandre de Rhodes

Above: Father Alexandre de Rhodes of Vietnam.
A French Jesuit missionary, Alexandre de Rhodes, took these efforts and developed an efficient Roman-type alphabet for Vietnamese. Long before the days of descriptive linguistics, de Rhodes was aware of the prime importance of tone in the speech of these people.
At the turn of the twentieth century, there were four writing systems in use in Vietnam: Chinese, Nôm, French, and de Rhodes'.
In the 1940s, there was a drive toward independence and literacy for everyone in the Vietnamese language. Only the de Rhodes alphabet, called Qúoc Ngú, "national script," was found suitable. Today nearly all speakers of Vietnamese are literate in Qúoc Ngú.

Trâu & Binh pháp Việt cổ

Trần Hạ Tháp

Đọc lại bài ca dao khuyến nông chẳng biết xuất hiện từ bao giờ:

"Trâu ơi ta bảo trâu này"

"Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta."

"Cấy cày vốn nghiệp nông gia"

"Ta đây trâu đấy ai mà quản công"

"Một mai lúa trổ đầy bông"

"Vẫn còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn"

Về con vật lớn xác nhưng dễ bảo ấy, dù các quan niệm dân gian là vô cùng phong phú, song cũng chỉ quanh quất bấy nhiêu điều thường sự. Thực ra chưa hẳn chẳng còn gì cao siêu ngoài các ấn tượng mộc mạc gắn liền với con trâu - nhắm chừng đã quá quen thuộc - suốt mấy ngàn năm nông nghiệp miệt mài cùng ruộng lúa, bờ tre.

Vâng, "Con trâu đi trước, cái cày theo sau". Là làng quê hiền hoà và ruộng đồng thanh thản... Hoặc nghêu ngao tiếng mục đồng giữa nương chiều đồng vọng. "Ai bảo chăn trâu là khổ. Chăn trâu sướng lắm chứ ..." . Bài hát của nhạc sĩ danh tiếng hồi nào - liệu chừng - nay còn ý nghĩa xác thực trước nền văn minh thế kỷ? Tất nhiên về chuyện sướng, khổ qua hình ảnh liên đới con trâu... Chả ai dám tự phụ biết đủ, biết đúng hơn người dân cày đích thực.

Ý nghĩa về biểu tượng trâu Việt Nam nên mở rộng thêm - cần uy nghi, đa dụng và nhất là bác học hơn - để nâng cao so những gì chỉ một chiều và một tầm từ rất lâu đã trở thành quán tính tri thức. Trâu biểu tượng ân nghĩa một nền nông nghiệp lúa nước chánh tông. Là sức mạnh căn bản lâu dài nhất toàn dân tộc. "Có thực mới vực được đạo", từ vua chúa đến cùng đinh xã hộikhông ai chối bỏ chén cơm đem sự sống mỗi ngày. Nguyên lúa mạ từ những luống đất vỡ - sau đuôi trâu - mà lên mầm tươi tốt. Cổ nhân nói "Trọng mà thiếu kính cẩn, cầm bằng như vô lễ". Ngợi ca suông, tán dương cách kẻ cả sẽ thiếu kính trong hai từ kính trọng. Chưa hết, riêng nước ta thì trâu còn biểu tượng cho một ý nghĩa hết sức quan trọng - thâm sâu - gắn liền với bao chiến công mặt nổi, và nhất là bao hoạt động tri thức mặt chìm, âm thầm đem chất xám cùng ra sức cứu nước...

Trâu, con vật thân thương - bình thường nhưng không tầm thường như phần nhiều ngộ nhận - là một trong những "chìa khoá" quyết định bao vấn đề hệ trọng, lắm lúc gián tiếp ảnh hưởng đến vận nước hoặc tồn vong của cả một triều đại, cơ đồ. Thử tìm các minh chứng vận dụng, biến hoá và sáng tạo riêng của lịch sử Việt Nam qua kết hợp giải thích từ Bát môn Binh pháp.

Vâng, Binh pháp Đông phương - nói chung - tuy biến hoá phức tạp,huyền vi nhưng không ngoài lý âm dương, công thủ. Tuy nhiên, đấy chỉ là phần đại cương căn bản... Điều đáng nói - quan trọng và quyết định - là tình thế áp dụng do thực tế địa lợi yêu cầu mỗi nơi mỗi khác. Vì thế cùng nguyên tắc, song biến hoá thiên hình vạn trạng. Đã đành ngoải tri thức bác học ra còn do tâm cơ linh mẫn của kẻ khiển tướng điều binh mà kết quả sẽ khác nhau trời, vực. Bát môn Binh pháp rất phức tạp ứng với tám phương đông, tây, nam, bắc và đông bắc, tây bắc, đông nam, tây nam chia tám cửa để lập thành trận thế hành binh:

Hưu - Sinh - Thương - Đổ - Kiển - Tử - Kinh - Khai.

Riêng cửa Hưu. Cửa chú trọng việc cố thủ lâu dài. Chuyên lấy đoản binh để cự cùng trường trận,sở trường dân tộc Việt. Nói theo từ nghĩa hiện đại dùng chiến thuật du kích kiềm hãm các cuộc vận động chính quy rầm rộ của quân thù.

Ngược với cửa Khai - lối lập trận sở trường của những đạo quân đế quốc hùng hổ - Cửa Hưu cũng chính là sở đoản của quân thù. Không phải mãi đến thời hiện đại, mà kỳ thực tổ tiên ta đã nắm chắc lý lẽ ấy từ lâu:

"Đoản binh chế trường trận"

"Ẩn hiện chủ diên trì"

"Dục tốc chiến, khả nguy"

"Dĩ dật đãi lao kế"



Hay là:

Binh nhỏ chống quân lớn

Linh động dài thời khắc

Muốn đánh mau, tất tổn

Kế lấy nhàn đợi nhọc



Cửa Hưu sử dụng quẻ Cấn: tượng núi non làm bí quyết. Cấn tức cản, có thể giúp ẩn hiện linh động "Dĩ dật đãi lao" - lấy khoẻ đợi mệt - nắm thời chờ phát động bất ngờ. Đánh úp, rút nhanh. Chuyên tiêu hao, gây hoảng loạn quân thù. Cửa "Hưu dụng Cấn, Cấn hội Sửu" để tuỳ nghi động biến. Sửu haytrâu cho phép rút ra các ưu điểm từ cá tính con vật để liệu dùng vào Binh pháp:

- Nhẫn: Kiên nhẫn bị khích không loạn

- Trì: Bền bĩ chịu đựng làm kế lâu dài

- Ẩn: Không háo chiến trừ lạc Tử môn hảm địa

- Giản: Lương thực rất đơn giản thô sơ

- Liên: Giữ chẳng rời mối dây liên lạc

- Nhuệ: Vũ khí lợi hại sắc nhọn sẵn sàng

- Dũng: Cảm tử khi cùng địch đối đầu

- Tuân: Tấn thoái, qua về như nhất chủ lệnh.

Đấy là Tinh hoa trâu mà cổ nhân, các bậc quân sư tài danh - hoặc vô danh ẩn dật - nghiền ngẫm bao đời đúc kết, sáng tạo nên Binh pháp cơ mật vô cùng độc đáo "Hưu môn Ngưu Cấn trận" biến hoá, sinh khắc kỳ ảo ngầm truyền người tài đức, mặt khác tránh rơi vào tay giặc hoặc bọn phản nghịch mãi quốc cầu vinh.

Khi đọc lại thật kỹ càng sử Việt, mới thấy rằng quả thực Tinh hoa trâu không chỉ giúp dân tộc ta trên ruộng đồng, kinh tế... Trước những pho: Lục thao, Tam lược, Tôn Võ Tử thập tam thiên binh pháp lừng danh kim cổ của học thuật quân sự Trung Hoa. Trước cơ man đội ngũ danh tướng, nhân tài gấp bao nhiêu lần nhân số... Và, trước con số kỉ lục kinh hoàng, chưa hề nghe qua trên thế giới: Một ngàn năm cố thủ, đối đầu cùng một kẻ thù truyền thống để giữ tổ quốc khỏi âmmưu đồng hoá... Tuyệt nhiên, sự tồn tại - một cách hùng hồn - của tổ quốc Việt Nam không hề là cơ duyên, may rủi. Càng không phải một phép mầu kỳ diệu nào ròng rã ban ân, trải qua mười thế kỷ...

Đấy là thành quả vô cùng đặc biệt tổng hợp nhiều tham số để làm nên lịch sử. Nhờ vào nhân dân một lòng, núi non hiểm trở cộng với tài trí siêu quần, nhất là công phu vận dụng - sở học uyên bác - mà tổ tiên ta mới đủ sức gìn giữ đất nước qua bao cuộc xâm lăng thôn tính. Những sở học siêu phàm.

Người đời sau tự hỏi: Tại sao những Binh pháp tối quan trọng ấy - báu vật quốc gia - nay thất truyền, mai một? Phải chăng đại tướng viễn chinh nhà Minh - Trương Phụ - đã quơ quét sách vở quý hiếm chở về Tàu, trước khi Lê Lợi kịp vãn hồi chủ quyền đất nước? Sự kiện lịch sử nầy làm nảy sinh lắm câu hỏi liên quan, giúp đời sau dần sáng tỏ vấn đề...

Trước Minh là Nguyên, Tống, Đường, Hán... Khác triều đại nhưng cố quyết một lòng bôi xoá nước ta trên bản đồ thế giới. Tổ tiên ta - qua vô số kinh nghiệm đánh đổi bằng xương máu - làm thế nào đã luôn bảo vệ được các Binh pháp cứu nước ấy nếu không biết cách khẩu truyền, giữ kín?

Lẽ nào tổ tiên ta bất trí, nhất nhất đem phô bày ra văn thư chữ nghĩa? Và, tại sao Hưng Đạo Vương chọn hẳn lối học gia truyền để tự đào luyện lấy các gia tướng tài kiêm văn võ? Phải chăng với cách truyền thụ vô cùng cao minh kia đãkhiến thám báo quân Nguyên chẳng thể nào dò ra thuật dụng binh kỳ diệu?

Sau Minh đến Thanh. Hai mươi vạn hùng binh kia cứ vẫn tơi tã mộng phá luỹ đạp thành trước anh tài Nguyễn Huệ. Binh pháp đã thất truyền trước đó - thời Trương Phụ - hay Binh pháp vẫn âm thầm tồn tại như đã từng tồn tại bao đời? Phương pháp khẩu truyền bí mật cần chấp nhận sự vô danh để bảo toàn quốc bảo ư? Vâng, hỏi cũng tức trả lời. Tổ tiên đã từng nói sâu xa ẩn ý đầy vi diệu "Truyền thư bất như truyền khẩu". Lời nói ấy đủ sức mạnh, sức nặng của cả một ngàn năm bảo chứng.

(Thành nội Huế. Tết Kỷ Sửu 2009)

Trần Hạ Tháp

Hãy tìm lại "khí thôn Ngưu" trong bài thơ của Phạm Ngũ Lão

"Thuật hoài" của Điện suý Thượng tướng quân Phạm Ngũ Lão. Bài thơ thất ngôn tứ tuyệt - như một Anh hùng ca - mãi mãi còn vang danh sử Việt. Đời sau cảm nhận được tráng chí chói trời Nam, một thuở hào hùng đầy "Khí thôn Ngưu, Đẩu":

"Hoành sóc giang sơn kháp kỷ thu"

"Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu"

"Nam nhi vị liễu công danh trái"

"Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu"

 

Học giả Trần Trọng Kim đã để lại bản dịch nắm bắt được phần nào nguyên nghĩa của bài thơ:

 

"Tỏ lòng"

"Múa giáo non sông trải mấy thu"

"Ba quân hùng khí nuốt sao Ngưu"

"Công danh nam tử còn vương nợ"

"Luống thẹn tai nghe chuyện Vũ Hầu"

 Tuy dịch giả tinh thâm Hán học chưa gạn lọc, phơi bày đầy đủ kết tinh tối hậu, song vẫn tốt hơn so đa số bản dịch khác - vô tình, do giới hạn của người dịch - làm lệch lạc nguyên nghĩa bài thơ rất đáng tiếc. Câu thứ hai - chính xác hơn tất cả chỉ gói trong ba chữ - thật đơn sơ, nhưng để gọi là "Tỏ lòng" của Phạm Điện suý, e rằng không quá dễ dàng như ta tưởng...

 Vâng, ba chữ "khí thôn Ngưu" rất nên cẩn trọng, chính xác hơn trong nghĩa bóng để khỏi phải rơi vào các "diễn nghĩa" tầm thường, dung tục hoá làm oan uổng lập ngôn tác giả mang bản sắc anh hùng. Một nhân tài kiệt xuất mà ngay cả Hưng Đạo vương cũng hết lòng mến thương, cưng quý.

 Phạm Điện suý Thượng tướng quân Phạm Ngũ Lão đối với Hưng Đạo vương, đầy đủ bốn tư cách: Thứ nhất, là thuộc tướng dưới quyền, người cộng tác đắc ý nhất, chưa bao giờ thất bại. Thứ hai, người học trò ưu tú thừa hưởng chân truyền học thuật, binh pháp do thánh sư Hưng Đạo vương khổ công tuyển tạo, kẻ vượt trổi toàn vẹn nhất trong hệ phái truyền gia Vạn Kiếp. Thứ ba, mặt quốc gia đại sự đấy là người tài đức nhắm chừng có khả năng gánh vác nhiều hơn hết những gì Hưng Đạo vương phải để lại lúc xa lánh cõi trần. Ngài hết lòng tiến cử đã đành, vua Trần còn thêm phần trân trọng. Thứ tư, trở thành con rể Hưng Đạo vương qua mộtthủ tục chưa từng có. Một biệt lệ sắp đặt nhằm vượt qua quy luật hoàng tộc đã an bài... Công chúa, quận chúa nhà Trần không được phép phối hôn người khác họ. Hưng Đạo vương đã làm lễ đổi họ cho con gái ruột để biến thành gái nuôi, ngài quyết một lòng có con rể Phạm Ngũ Lão bằng mọi giá - thực chất - không là người cùng họ với hoàng gia.

 Tất cả những sự kiện ấy, quá đặc biệt đủ để nói lên tài năng, trí tuệ và công phu học thuật Phạm Ngũ Lão ra sao, tầm cỡ nào? Quả thực không thể chỉ đánh giá ông chung chung "Văn võ song toàn ", loại mà triều đại nhà Trần lúc này không thiếu người thành đạt... Đã có sắp xếp vị trí ông trên cả Trần Nhật Duật, Trần Khánh Dư và chỉ dưới Trần Hưng Đạo mà không ai dị nghị gì, dù đấy chỉ là người xuất thân ngoại tộc.

 Văn chương ngày xưa mang tính ước lệ, mượn điển tích và học thuật, tư tưởng phương Đông để cấu thành thi pháp cổ điển. Đấy là việc hiển nhiên, không cách nào khác hơn nắm vững - hoặc tối thiểu đại cương - các điển tích, nhất là học thuật phương Đông trước khi dịch thuật, tuyên thuyết hoặc chê khen định luận... Đó là chưa nói tới tác giả, loại người như Phạm Điện suý ắt văn thơ tư tưởng của ông - dù ít số lượng - còn ẩn tàng dấu vết những học thuật cao đẳng - rất chuyên môn - chỉ các bậc quân sư, danh tướng, hoặc học giả căn cơ "vạn nhân hy hữu" mới mong thành đạt học thuật về Binh pháp, Kỳ môn hoặc Thiên văn quan tượng...

 Trở lại với ba chữ "khí thôn Ngưu"... Trước hết, thuật ngữ đầy đủ của chính nó "Khí thôn Ngưu, Đẩu" hoặc có khi "Khí xạ Đẩu, Ngưu" do vần điệu văn thơ đòi hỏi mà người xưa tuỳ nghi sử dụng... Ngay cả bỏ bớt chữ Đẩu như trường hợp bài thơ đang nói, cũng không làm xoá đi gốc chữ. Nhưng Ngưu, Đẩu đến từ đâu? Phải chăng đấy là hai chòm sao đặc biệt? Tại sao Ngưu, Đẩu thường đi đôi trong thuật ngữ thiên văn?

 Vòng Hoàng Đạo trên bầu trời chia thành các khoảng cách tương đối không đồng đều, định vị hai tám chòm sao gọi vẫn gọi chung Nhị thập bát : Giác, Cang, Đê, Phòng, Tâm, Vĩ, Cơ, Đẩu, Ngưu, Nữ, Hư, Nguy, Thất, Bích, Khuê, Lâu, Vị, Mão, Tất, Chuỷ, Sâm, Tỉnh, Quỷ, Liễu, Tinh, Trương, Dực, Chẩn. Trong đó vị trí thứ 8 chòm sao Đẩu, và thứ 9 chòm sao Ngưu kế cận, đi đôi. Chúng chủ trì hai "phân dã" trực tiếp liên quan phương đông bắc và đông bắc kiêm bắc, dưới mặt đất tương ứng...

 Đế quốc Trung Hoa vẫn tự nhận là "Thiên triều", là "ở giữa tinh hoa toàn nhân loại" vì thế, không lạ gì trong Thiên văn quan tượng - theo hệ quy chiếu của riêng mình - hai phân dã Đẩu, Ngưu của họ trực tiếp liên quan tới "rợ Địch" - một cách gọi trịnh thượng, miệt thị đối với các lân quốc mặt bắc nói chung như Cao Ly (Hàn quốc ngày nay)chẳng hạn...

 Cũng với hai chòm sao nầy theo hệ quy chiếu nước ta thì "phân dã " đông bắc và đông bắc kiêm bắc - thật trớ trêu, kỳ thú - tương ứng với ai? Nếu không là cương thổ vĩ đại của "Thiên triều". Khi lấy Kinh thành Thăng Long làm chuẩn đặt vào trung tâm hệ quy chiếu riêng cho nước ta(để sử dụng học thuật Thiên văn quan tượng nhằm liệu định việc quân cơ trong Binh pháp)... Thì phương đông bắc và đông bắc kiêm bắc cũng là địa bàn chính Phạm Ngũ Lão được phân công, từng mấy lần làm Mông Nguyên khiếp đảm.

 Ông đặc biệt được triều đình tin tưởng cử trấn thủ biên cương Hoa Việt, nhiệm vụ chặn đường rút và tiêu diệt quân thù. Cũng chính ở phương nầy Lý Quán, Lý Hằng các danh tướng của quân đội viễn chinh đã phải bỏ mạng dưới ngọn giáo kiêu hùng Phạm Điện suý. Hơn thế, Thái tử Thoát Hoan khi rút lui phải đối đầu cánh quân Phạm Ngũ Lão. Kẻ tổng chỉ huy quân xâm lược Mông Nguyên kia đã hai lần thoát chết nhờ chui ống đồng, lần khác cải trang lẫn vào tàn binh vượt biên trốn về "Thiên triều" cố quốc.

 Học thuật Thiên văn quan tượng thường sử dụng hai chòm Ngưu, Đẩu để dự đoán vận mệnh anh tài, tướng soái. Án theo góc độ quan sát riêng của một nước, một địa bàn quản hạt rộng lớn... Khi thấy hai sao lu mờ, u ám bất thường do phạm phải ánh sáng sao khác bắn vào, lấn lướt gọi là "Khí xạ Đẩu, Ngưu" . Vẫn chưa tệ hại bằng "Khí thôn Ngưu, Đẩu" không những bị lấn lướt lu mờ mà chìm khuất dưới ánh sáng sao khác trùm lên, phủ nuốt. Là lúc dự đoán sự tệ hại ở mức độ kinh hoàng. Anh tài đều tuyệt lộ. Điềm bại binh không cứu vãn.

 Hãy đọc lại câu tuyệt bút văn chương, không những thế còn bao hàm một học thuật uyên bác, kinh nhân của Điện suý Thượng tướng quân Phạm Ngũ Lão, học trò yêu quý nhất của thánh sư Trần Quốc Tuấn:

 "Tam quân tì hổ khí thôn Ngưu".

 Vâng, quân ta như ánh sao chói lọi làm "Khí thôn Ngưu, Đẩu" - từ lâu vẫn tượng trưng cho hào kiệt, tướng soái "Thiên triều" trên bầu trời kiêu hãnh. Chữ "thôn" - nuốt - trong thôn tính, động từ mà "Thiên triều " chưa bao giờ từ bỏ mộng áp đặt lên sơn hà cõi Việt. Với Phạm Ngũ Lão, cách chơi chữ của ông không còn bình thường như - cuộc chơi - người đời làm thơ để uống rượu tiêu sầu, hoặc thú tài điệu thi nhân lấy văn chương tỏ đôi chút tư tưởng cao xa so mấy người dung tục. Không, ông tuyệt nhiên không đứng vào hạng ấy. Hạng làm thơ dù chuyên môn rồi cũng chỉ để làm thơ.

 Không chỉ qua chiến công giữ nước mà thôi, ông còn sử dụng văn chương để hiên ngang lấy lại công bằng. Phạm Ngũ Lão đã trả món nợ chữ "thôn" cho lịch sử Việt Nam, cho tự ái dân tộc và cả cho con cháu, hậu duệ - nhỡ có ai - còn tự ti về một nước Nam bé nhỏ. Với chỉ một bài thơ để lại kia - quá đủ, quá nhiều - giá trị đã tự nói, tự giải nghĩa với đời sau, rằng với ông có nhất thiết cần viết gì thêm nữa?

 (Thành nội Huế. 25 Tết Kỷ Sửu 2009)

Trần Hạ Tháp

Sát Thát!

Ngày 26 tháng 10 năm 1284 khi vó ngựa quân Mông Cổ giẫm lên đất Đại Việt tiến về bến Vạn Kiếp, chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc kẻ thù mạnh đến như vậy. Phía bắc, Trần Bình Trọng thảm bại trước kỵ binh của Ô Mã Nhi, bị bắt sống, tuyến phòng ngự Thăng Long tan vỡ. Phía nam, thủy quân của Toa Đô chiếm Nghệ An lập thế gọng kềm, vua Trần phải bỏ kinh sư chạy về phủ Thiên Trường. Định mệnh của dân tộc đã có thể chấm dứt ở cuối thế kỷ 13.

Nhưng chưa bao giờ trong những ngày nguy khốn cùng cực này, quyết tâm giữ đất của dân tộc cao đến vậy; tất cả nam nữ cùng thích lên tay hai chữ "Sát Thát".

"Sát Thát" đã được xâm lên da thịt của người Việt, để thấm vào máu Việt, để di truyền cho con cháu đời sau. Di truyền hào khí lẫm liệt của cả một dân tộc quyết không chịu nhục mà hôm nay, chúng ta, hãy còn tìm thấy trên trang sử cũ: "Thà làm quỷ nước Nam, còn hơn làm vương đất Bắc".

Bảy thế kỷ sau, dân tộc này hãy còn mang trong mình khí phách của "Đoạt sáo Chương Dương độ":


Chương Dương đoạt giáo giặc
Hàm Tử bắt quân thù
Thái bình nên gắng sức
Non nước ấy ngàn thu

Bảy thế kỷ sau, di duệ của Trần Nguyên Hãn bị Bắc Kinh chiếm đất, với đầy miệt thị khiêu khích. Bảy thế kỷ sau, Hồ Cẩm Đào thực hiện di chúc của Hốt Tất Liệt, Mã Viện, Trương Phụ, Liễu Thăng, Tôn Sĩ Nghị, một cách dễ dàng không kèn trống. Chưa có đế quốc nào đi chiếm đất lân bang dễ dàng sung sướng như đế quốc Trung Hoa đầu thế kỷ 21. Vừa chiếm, vừa khinh, vừa được Chế Mân ôm hôn thắm thiết.

Bảy thế kỷ sau, tình thế đã khác. Nếu bối cảnh khác, lòng can đảm của dân tộc này không khác. Lòng can đảm mà môn võ thuật truyền thống của dân tộc còn lưu trữ: thế đánh ngoạn mục của Việt Võ Đạo tung người quặp đối thủ quật xuống đã phát xuất trong những ngày kỵ binh Mông Cổ tràn xuống Thái Nguyên, càn xuống Vĩnh Phú. Ít ngựa, thiếu phiêu kỵ, tổ tiên đã dùng dôi chân nông dân chạy thật nhanh, áp sát lườn ngựa, hất tung mình lấy chân quặp cổ kỵ mã Mông Cổ giựt chúi xuống đất rồi kết liễu bằng dao găm. Bảy thế kỷ sau, mới hôm qua, lòng can đảm hãy còn đó, khi những người lính của Trung đoàn Thủ đô ôm bom ba càng lao vào chiến xa Sherman. Mới đêm qua, các Trung đoàn Sông Lô, Tây Bắc, Tu Vũ, Nho Quan, đã đạp lên trùng trùng thép gai làm nên chiến thắng chấn động Điện Biên Phủ.

Chính sự hy sinh can đảm của dân tộc đã đánh tan Bán Lữ đoàn Lê dương 13 [1] , đơn vị lừng lẫy nhất của quân đội Pháp, đơn vị đã tử thủ tại Bir Hacheim [2] trước Xa đoàn châu Phi [3] Đức Quốc xã của thống chế Erwin Rommel. Chỉ trong 5 tiếng đồng hồ, từ 5 giờ chiều đến 10 giờ tối của ngày 13 tháng 3-1954, Tiểu đoàn 3 của Bán Lữ đoàn Lê dương 13 cáo chung trên đồi Béatrice. Nếu Toa Đô chết ở Tây Kết, Sầm Nghi Đống treo cổ tự vẫn trong trận đồn Ngọc Hồi, tư lệnh pháo binh Charles Piroth tự sát sau trận đồi Gabrielle.

Bảy thế kỷ sau Thoát Hoan, tổ tiên Nguyên Mông của Hồ Cẩm Đào, lòng ái quốc của dân tộc Việt vẫn nguyên vẹn.

Đầu thế kỷ 21, tình thế đã khác. Nếu Trung Hoa vĩ đại của Hồ Cẩm Đào chưa thực sự hùng mạnh như đế chế Mông Cổ, Đại Việt đã suy yếu. Quốc gia Việt Nam hôm nay thiếu sự đồng thuận dân tộc trong mọi lĩnh vực. Khác với triều Trần vô cùng hợp nhất từ lòng dân đến quốc giáo, từ làng mạc cho đến tận trong cung điện; vương quốc hậu Đại Việt ngày nay bị phân hoá. Nguyên nhân có thể tìm thấy trong hai nội chiến đẫm máu Trịnh-Nguyễn và Nam-Bắc, còn tìm thấy trong cả định hướng xã hội chủ nghĩa không hợp lòng dân. Bên cạnh sự phân hoá, phát lộ một yếu kém bản năng: Khả năng suy nghĩ đại dương không được hệ thống hoá, trống vắng, hay chưa hề có.

Chưa bao giờ như hôm nay, đứng trước biển, dân tộc Việt chứng kiến sự bất lực rõ rệt của mình trước đại dương. Nỗi bất hạnh to lớn ngang bằng sự bất lực vĩ đại trường kỳ trước dinh thái thú Tô Định trên đường Minh Khai. Khoảng cách vài trăm thước dài bằng khoảng cách nhiều trăm hải lý chia cách quần đảo Hoàng Sa. Sẽ không bao giờ dân Việt bơi đến. Sẽ không thể nào dân Việt chìa tay cho lính Trung Quốc trông thấy hai chữ "Sát Thát" xâm chín đỏ da thịt mình. Đại dương đã chiến thắng lòng can đảm.

Hậu quả của 40 thế kỷ văn hiến u tối không suy nghĩ biển? Hậu quả của sợ hãi phiêu lưu đến chân trời góc bễ? Sợ hãi thủy quái? Sợ hãi những điều chưa ghi chép trong sách Thánh Hiền? Khó phản biện, chỉ có thể thông cảm, với một dân tộc sinh sống bằng nghề trồng lúa, tình yêu đất cát, quê cha đất tổ, nơi chôn nhau cắt rốn, đã mãnh liệt hơn mặt biển không cho lúa. Chính tình cảm gắn bó quê mẹ đã khiến Đại Việt không có hạm đội viễn chinh, không phát triển ngành hàng hải. Nhưng nếu chưa biết cách chế ngự đại dương, chính tình yêu đất cát dữ dằn này đã giúp dân Việt bảo tồn lãnh thổ trước khối lượng người khủng khiếp của tộc Hán. Có thể viết, cũng chính Trung Quốc khiến dân tộc Việt trước thế kỷ 19 với xã hội làng mạc không thể có ngành hàng hải, vượt trùng dương lấy ai cầy cấy, lấy ai giữ ruộng vườn khi kẻ thù phương Bắc rình rập từng quý, khi kinh nghiệm máu xương khắc ghi: để chiến thắng Trung Hoa trong mỗi trận chiến, tổ quốc phải dốc toàn lực, toàn sức, với những mất mát hy sinh tận gốc rễ mà sau mỗi chiến thắng, nếu chiến thắng, còn phải triều cống. Đi biển sáu tháng, một năm, hai năm, như các tiểu quốc Bồ Đào Nha, Hoà Lan, Na Uy vượt khỏi tầm tay với của những nông phu nghèo, vượt khỏi ước mơ của những làng chài mong ngóng chồng con đem về một lưới cá.

Dân tộc này nghèo, nhưng sẵn sàng chết để giữ đất. Trung Hoa với tất cả những triết lý nhân sinh của Khổng, Lão, Trang đã không muốn hiểu. Riêng một mình Hồ Cẩm Đào thấu hiểu: “tình hữu nghị Việt - Trung đời đời bền vững”.

Hôm nay không ai trách cứ các triều Lý, Trần, Lê, Nguyễn đã không xây dựng một hạm đội Thái Bình Dương, như Minh trị Thiên hoàng đã hiểu ra thủy chiến quyết định sinh mệnh của Nhật Bản. Không ai trách tổ tiên, trong những ngày chiến thắng rực rỡ của Ngô Quyền, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ, đã không chiếm lấy đảo Hải Nam mà vị trí chiến lược khống chế toàn vịnh Bắc Bộ. Hôm nay, những sinh viên thanh niên biểu tình trước dinh thái thú Tô Định, trong ngày phẫn nộ 9 tháng 12-2007, đã trách: Vì sao quốc gia phải dâng hai châu Ô, châu Lý? Mà dâng khuất tất? Chiếm Hoàng Sa và Trường Sa, Hồ Cẩm Đào đã có thể khống chế vịnh Cam Ranh. Cánh cửa mở ra Thái Bình Dương vừa bị khóa.

Có phải vì vậy hay không mà đại diện Robert Lucius của hải quân Hoa Kỳ, tại Hà Nội, đã trả lời BBC lạt lẽo: “Hoa Kỳ chưa hề tiếp cận Việt Nam về vấn đề cảng Cam Ranh từ sau 1975, và cũng có đủ các cơ sở trong vùng nên không có nhu cầu sử dụng hải cảng này”. Trong câu nói, có vị chua ở đầu lưỡi. Có phải vì sự hiện diện của không hải lục Trung Hoa trên đảo Trường Sa đã triệt tiêu vị thế của Cam Ranh? Ở chính giữa thời điểm căng thẳng Việt - Trung, 24 giờ ngay sau khi sinh viên xuống đường, ba ngày trước khi đô đốc tổng tư lệnh Timothy Keating viếng thăm, từ chối khéo của Robert Lucius mang ý nghĩa trầm trọng gần như có thỏa thuận ngấm ngầm giữa các đế quốc.

Đến một buổi sáng dân tộc thức giấc đau đớn khắp mình mẩy, nỗi đau tím bầm da thịt mất đất, mất biển. Đến một buổi sáng dân tộc thức giấc vụt khám phá mình đơn thương độc mã, trơ trọi trước một tỷ người Hán. Khác chiến tranh biên giới 1979, Tổng Bí thư Lê Duẩn, sau phát súng lệnh đầu tiên, đã có thể ký hiệp ước quân sự hỗ tương Nga - Việt làm giảm áp lực phương Bắc. Hôm nay, chính phủ Việt Nam khó khăn tìm ra một hiệp ước quân sự để ký kết. Mà không thể ký kết, khi chính sách đối ngoại “Làm bạn với tất cả thế giới” không cho phép những liên minh quân sự với phía này hay phía khác. Đã đến buổi sáng, dân chúng thức giấc, kinh hoảng khám phá “Làm bạn với tất cả thế giới” là một thực tế trống rỗng, thiếu hậu thuẫn. Kẻ thù đã xuất hiện trùng trùng trên mặt biển. Trước hình ảnh Trương Phụ kéo lê thanh long đao, của Quan Vân Trường để lại, đứng trên đỉnh Hoá Châu chỉ xuống thung lũng mưa gió sấm sét, quát: Đất này là của Mã Viện; đại diện Robert Lucius, ngay giữa lòng thủ đô Thăng Long, đã nhã nhặn từ chối: Hoa Kỳ không cần bạn, chỉ cần đồng minh.

Trong buổi sáng tím tái, ướt đầm vì sóng biển, sinh viên Việt Nam muốn theo gương Trần Quốc Toản, giương lá cờ “Phá cường địch báo hoàng ân”, thậm chí sẵn sàng “Phá cường địch báo Hồng ân”, nhưng các cấm vệ lại cấm ngặt không cho phép, rồi bắt giải tán. Sao Đoàn Thanh niên Cộng sản tuổi trẻ Hồ Chí Minh lại thiếu ý chí, thua kém cả Đoàn Thanh niên Quốc xã tuổi trẻ Adolf Hitler đã chiến đấu trên từng đường phố Bá Linh, cho đến phút cuối cùng, cho đến viên đạn chót cùng trước Hồng quân Xô-viết, ngay cả khi không có chính nghĩa? Chúng ta tràn đầy muôn triệu lý do phải kháng cự, nhưng triều đình đã im lặng. Trong buổi sáng có những lượn sóng sắc như lam, nhởn nhơ chảy về từ biển Đông, làm chảy máu trái tim Việt, tất cả đã tuyệt vọng trông chờ một ánh mắt. Cái quắc mắt của Trần Thủ Độ khi trả lời vua Trần: “Đầu tôi chưa rơi xuống đất, xin bệ hạ đừng lo”. Cái quắc mắt đã cứu sống sinh mệnh Đại Việt, đã khiến vua Trần phải hiểu, không phải đầu thái sư, mà chính là đầu thiên tử sẽ rơi xuống đất trước tiên nếu quy hàng. Nhưng tất cả các quan đều đeo kính mát, khiến không ai có thể trông thấy ánh mắt của những điện tiền chỉ huy sứ.

Đơn thương độc mã và triều đình im tiếng, nên dân chúng phải tự đi tìm kế sách giữ nước. Karl von Clausewitz, ở chương thứ 4, tập 8, của cẩm nang Chiến tranh, phân tích:


“… Đứng trước trường hợp hai quốc gia tranh giành đất, hai bên lâm chiến đều cần thời gian. Câu hỏi đặt ra, ai trong hai phía, với tình trạng quốc gia riêng biệt, về lâu dài, sẽ thuận lợi? Cân nhắc tính chất của từng bên, kết luận luôn đưa đến kẻ yếu nhất sẽ thắng thế. Không phải sức mạnh, mà yếu tố tâm lý. Chính lòng tham, sự quan ngại, tranh chấp, tính toán, lẫn sự hỗ trợ trái ngược của những quốc gia đứng ngoài sẽ làm rạn nứt liên minh giữa chính họ với kẻ đang thắng thế. Càng dài lâu, kẻ thua thiệt càng nhiều cơ hội. Mặt khác, để khai thác thành quả của chiến thắng đầu tiên, phe đang chiếm ưu thế phải tổn hao rất nhiều sức lực. Không chỉ để chiếm đóng mà để duy trì sự chiếm đóng. Nếu tài nguyên của tỉnh lỵ tóm thâu, không đủ trang trải phí tổn, sẽ trở thành một sức nặng không thể gánh. Yếu tố thời gian, như vậy, có thể giúp lật ngược tình thế.

… Ngược lại, nếu những tỉnh lỵ vừa chiếm đoạt đủ quan trọng, và bao gộp những vùng chiến lược sống còn, cho lục địa hay những vùng không thể đụng đến, sự chiếm đóng sẽ lan nhanh như chứng ung thư. Kẻ lấn chiếm sẽ thu lợi nhuận nhiều hơn thất thu. Nếu không có một sự tiếp ứng nào đến từ bên ngoài, thời gian sẽ hoàn tất chiến quả đã khai mào, và những vùng đất khác sẽ tự rụng vào trong hầu bao giắt lưng của kẻ xâm lược. Thời gian trở thành yếu tố hỗ trợ kẻ đi xâm chiếm, tiếp tay cho đến chừng nào kẻ lấn chiếm không bị phản công. Trường hợp này, một đảo ngược tình thế khó khả thi; vì đến mức này, sự đảo ngược khó có giá trị, vì cốt lõi của chiến tranh đã được thực hiện, những hiểm nguy cao nhất kẻ xâm chiếm đã vượt qua. Trong một chữ, đối phương đã quỵ gối.”

(De la guerre, Karl Von Clausewitz, tập VIII, chương IV) [4]

Phân tích của Clausewitz năm 1830 làm dân Việt thêm tuyệt vọng, vì quốc gia Việt Nam đang rơi vào tình trạng "Nếu không có một sự tiếp ứng nào đến từ bên ngoài, thời gian sẽ hoàn tất chiến quả đã khai mào, và những vùng đất khác sẽ tự rụng vào trong hầu bao giắt lưng của kẻ xâm lược". Trong cẩm nang Chiến tranh, Clausewitz còn đòi hỏi một yếu tố tiên quyết khác: “Tính hợp nhất chính trị. Thiếu sự hợp nhất này, mọi chiến thuật, chiến lược đều vô vọng”. Chính đây là nhược điểm lớn nhất của đất nước. Vừa làm bạn với kẻ thù, vừa chia sẻ ý thức hệ, vừa phải phòng chống, khiến tất cả các sách lược không thể nhất quán.

Một tuần lễ sau Ngày Phẫn Uất, dân Việt ra đường ngỡ ngàng trông thấy trên các sạp báo, bản tin của báo Tuổi trẻ: Phát hiện âm mưu kích động tuần hành, biểu tình… Những hậu duệ của Trần Hưng Đạo lặng lẽ trở về nhà, lặng lẽ đội mũ bảo hiểm theo quy định, vì đây là biện pháp phòng chống bá quyền Trung Quốc duy nhất của đất nước.

Sẽ như Clausewitz tiên đoán, quốc gia rồi quỵ gối trở lại làm An Nam Giao Chỉ Quận? Toàn dân tộc trông cậy vào những cuộc tuần hành của tuổi trẻ, giữ cho vết xâm hai chữ “Sát Thát” của tổ tiên không biến mất, với hy vọng, giới hữu trách hiểu ra: Đảng cầm quyền sẽ mất tính chính danh nếu không bảo vệ lãnh thổ.

15 tháng 12-2007

[1]Georges Blond, Histoire de la Légion Etrangère, nxb France Loisir, 1982
[2]Jacques Mordal, Bir Hacheim, Une épopée française, nxb Amiot – Dumont 1951
[3]Paul Carell, Afrika Korps, nxb Robert Lafond, 1960
[4]Karl von Clausewitz, De la guerre, Nxb Perrin, 2007

2007-12-19 18:23:18

Vì sao sau một ngàn năm đô hộ, bá quyền Trung Quốc vẫn không Hán hoá được Việt Nam?

Tôi đã thử tìm hiểu vì sao lại có được cái phép lạ đó. Theo tôi suy nghĩ, đó là nhờ ở bốn nhân tố:


Ý thức quốc gia của người Lạc Việt đã rất sớm nẩy nở, đủ sức chống lại ý thức bá quyền Đại Hán ngay từ khởi đầu.
Tinh thần dân tộc của người Lạc Việt đã vượt qua được giới hạn bộ tộc để đủ sức đương đầu với chủng tộc Đại Hán.
Truyền thống mẫu hệ của người Lạc Việt đã vô hiệu hoá phương thức đồng hoá bằng hôn nhân của người Hán theo chế độ phụ hệ, giúp cho dân Việt Nam bảo tồn được giống nòi.
Thể chế lạc tướng - lạc hầu được tồn lưu dưới hình thức cơ chế làng xã đã giúp dân Việt bảo vệ được nền tự chủ của mình.

Tôi cũng xin nói cho rõ hơn là cái nghĩa của từ “quốc gia” tôi bàn luận ở đây không cùng nghĩa với từ “quốc gia” bây giờ, và cũng không đồng nghĩa với chữ “quốc” trong “liệt quốc” thời Chiến quốc, mà có nghĩa “quốc gia Nam Việt” đối lập với “Trung Quốc” nhà Hán.

===============
Vì sao sau một ngàn năm đô hộ, bá quyền Trung Quốc vẫn không Hán hoá được Việt Nam?
Phong Uyên

Từ thượng cổ, người Trung Hoa đã tự tạo cho mình niềm tin rằng vua chúa của họ là “Thiên tử” (con Trời), được ban cho “thiên mệnh” trị vì bàn dân thiên hạ. Từ khi vị hoàng đế đầu tiên (Tần Thủy Hoàng đế) thống nhất các nước nằm trong lưu vực sông Hoàng, nơi này được gọi là Trung Quốc – hàm ý quốc gia ở trung tâm toàn cõi đất.


Trăm họ tộc Hoa người Trung quốc được coi là thần dân. Những dân tộc không cùng dòng giống với người Hoa sống ở những khoảng đất chung quanh đều bị coi là man di như Hung Nô phía Bắc, Bách Việt phía Nam. Sau nhà Tần, các triều đại nhà Hán vẫn lấy danh nghĩa làm theo “mệnh trời”, tiếp tục chính sách bành trướng của Tần Thủy Hoàng chiếm hữu đất đai của các dân tộc này sáp nhập vào Trung Quốc. Còn tinh vi hơn, đàn bà con gái của các dân tộc này bị ép lấy người Hán, để rồi con cái họ trở thành người Hán vì mang huyết thống cha theo chế độ phụ hệ một chiều của người Tàu; bằng cách này, chỉ sau vài trăm năm, các dân tộc này đều bị tuyệt giống. Thật ra, đó là cách duy nhất để cung cấp nhân công cho một nền kinh tế có căn bản là nông nghiệp, khi người Hán chỉ là thiểu số so với toàn thể số dân đại lục Trung Hoa thời đó (vào khoảng 50 triệu, bằng dân số đế quốc La Mã cùng thời). Trong khoảng một ngàn năm gần như toàn thể các tộc Bách Việt sống ở phía Nam sông Dương Tử đều đã bị Hán hoá và tuyệt chủng. Chỉ còn lại duy nhất một dân tộc thoát được nạn này là dân tộc Lạc Việt, tổ tiên chủ yếu của dân tộc Việt Nam sau này: không những không bị đồng hoá mà, kỳ diệu hơn, còn giành được độc lập, giữ được một phần đất phía Bắc và tiếp tục bành trướng về phía Nam để tạo thành một quốc gia riêng, biệt lập với Trung Quốc, điều đã khiến cho cuộc Nam tiến của người Hán xuống cực Nam của vùng Đông Nam Á bị khựng lại từ hơn một ngàn năm nay.


Tôi đã thử tìm hiểu vì sao lại có được cái phép lạ đó. Theo tôi suy nghĩ, đó là nhờ ở bốn nhân tố:


Ý thức quốc gia của người Lạc Việt đã rất sớm nẩy nở, đủ sức chống lại ý thức bá quyền Đại Hán ngay từ khởi đầu.
Tinh thần dân tộc của người Lạc Việt đã vượt qua được giới hạn bộ tộc để đủ sức đương đầu với chủng tộc Đại Hán.
Truyền thống mẫu hệ của người Lạc Việt đã vô hiệu hoá phương thức đồng hoá bằng hôn nhân của người Hán theo chế độ phụ hệ, giúp cho dân Việt Nam bảo tồn được giống nòi.
Thể chế lạc tướng - lạc hầu được tồn lưu dưới hình thức cơ chế làng xã đã giúp dân Việt bảo vệ được nền tự chủ của mình.

Tôi cũng xin nói cho rõ hơn là cái nghĩa của từ “quốc gia” tôi bàn luận ở đây không cùng nghĩa với từ “quốc gia” bây giờ, và cũng không đồng nghĩa với chữ “quốc” trong “liệt quốc” thời Chiến quốc, mà có nghĩa “quốc gia Nam Việt” đối lập với “Trung Quốc” nhà Hán.


Theo tôi, chính Triệu Đà, để phục vụ tham vọng của mình, đã là người tạo cho dân Việt ý thức quốc gia và tinh thần dân tộc theo cái nghĩa đó. Trong lịch sử nhân loại có nhiều trường hợp như vậy: Alexandre Đại đế người Macédoine làm dạng danh nước Hi Lạp. Guillaume le Conquérant người Pháp lập ra nước Anh, trong quá khứ luôn luôn thù địch với Pháp. Napoléon người Corse đã đưa nước Pháp tới tột đỉnh vinh quang. Không kể những hung thần như Thành Cát Tư Hãn người Mông Cổ lập ra nhà Nguyên, Staline người Georgie, Hitler người Áo v.v...


Ý thức quốc gia


Khi Tần Thủy Hoàng mất, Triệu Đà chỉ là một viên lệnh úy tầm thường gốc người nước Ngụy thuộc tộc Hoa, nhưng là người có chí khí, đã biết lợi dụng thời thế hợp quần một số tộc Việt để xưng đế lập ra nước Nam Việt cùng thời với Trung Quốc của Hán Cao Tổ. Theo các nhà sử học phương Tây, sở dĩ nước Tần thắng được các nước khác, không phải vì có Tần Thủy Hoàng mà vì nước Tần là nước có thể chế, có hành chính qui củ, có quân đội mạnh, vũ khí tân tiến hơn các nước khác thời bấy giờ. Từng là một viên tiểu lại của nhà Tần, Triệu Đà đã lấy kinh nghiệm nước Tần để gây dựng nước Nam Viêt thành một quốc gia tân tiến ngang, nếu không nói là hơn Trung Quốc của nhà Hán thời sơ khai, nhất là về quân sự (đánh chiếm Trường Sa). Có thể nói trên lục điạ Trung Hoa và gần như cả Đông Nam Á thời đó, chỉ có hai quốc gia ngang sức đương đầu với nhau là Trung Quốc và Nam Việt. Cả hai đều có cơ cấu phỏng theo nước Tần. Nhờ vậy người Bách Việt trong nước Nam Việt của Triệu Đà có ý thức quốc gia rất sớm và sau một ngàn năm bị đô hộ vẫn giữ được ý thức đó để tái lập lại nước Việt sau này. Người Hán cho đó là khi quân, một thế giới không thể có hai nước, một điều phạm đến “thiên mệnh” của Trung Quốc, nên dùng đủ mọi phương kế kể cả phương kế bỉ ổi nhất là mỹ nhân kế Cù thị để xoá bỏ cho bằng được nước Nam Việt. Khi tiêu diệt được nhà Triệu, nước Nam Việt bị đổi thành Giao Chỉ bộ và bị chia nhỏ thành 9 quận cho mất tang tích một quốc gia đã dám đương đầu với Trung Quốc. Tuy vậy người Trung Hoa cho tới ngày nay vẫn luôn luôn bị ám ảnh bởi một quốc gia đã dám chống đối mình ngay từ sơ khởi, nên không có gì lạ khi nhà Thanh vì mặc cảm đã bắt Gia Long phải đổi quốc hiệu mà ông dự kiến “Nam Việt” thành “Việt Nam”. Trong thâm tâm, người Tàu vẫn coi Việt Nam là Giao Chỉ quận hay An Nam đô hộ phủ. Chứng cớ là khi người Pháp mới đặt chân xuống miền Nam, hỏi mấy chú Chệt tên nước này là gì, mấy chú vẫn nói tên là “Giao Chỉ”. Tây nghe âm Tàu đọc trại là “Cochin”. Lại sợ lầm với tên đất Cochin bên Ấn Độ, nên đặt lại là “Cochinchine” để phân biệt (từ tố “-chine” có nghĩa là “Trung Quốc”).


Tinh thần dân tộc

Là một nhà chính trị khôn ngoan, Triệu Đà đưa ra chủ trương liên kết mọi tộc Việt trong nước Nam Việt với nhau (như trong câu “người trong một nước phải thương nhau cùng”), điều đã khiến cho mọi tộc Việt vượt qua được giới hạn bộ tộc của mình, đi đến một ý niệm cao hơn là ý niệm về dân tộc Việt. Tinh thần dân tộc lại càng thêm vững mạnh khi Triệu Đà đem lại cho dân tộc Việt vinh quang đầu tiên bằng chiến công đánh chiếm Trường Sa [1] của Trung Quốc. Hơn một ngàn năm sau Lý Thường Kiệt noi gương đem quân tràn qua Tàu đánh phá các châu Khâm, Liêm. Rồi lại gần 1000 năm sau nữa, sau trận Đống Đa làm nhà Thanh khiếp đảm, Thanh đế Càn Long sợ Quang Trung sang đánh và đòi đất, phải vội vàng hứa gả con gái cho và hứa trả lại Lưỡng Quảng (Quảng Đông và Quảng Tây).


Chế độ mẫu hệ và truyền thống lạc tướng - lạc hầu

Khi lập Văn vương [2] , cháu đích tôn con Mị Nương và Trọng Thủy, lên kế nghiệp mình, Triệu Đà có ý muốn nương theo chế độ mẫu hệ của người Lạc Việt để Việt hoá dòng giống mình, ngõ hầu triều đại nhà Triệu trở thành triều đại quy mô đầu tiên của dân Việt và sau này có thể dựa vào dân tộc Việt chống lại được sự bành trướng của Trung quốc. Trong lịch sử nhân loại, những dân tộc yếu muốn bảo vê được sự sống còn của nòi giống mình trước những dân tộc mạnh hơn đều chỉ có cách là duy trì liên hệ gia đình theo mẫu hệ. Thí dụ điển hình nhất là dân tộc Do Thái, 2000 năm mất nước, phải di tản đến mọi nơi trên thế giới, trước đó đã bao lần bị lưu đầy qua nhiều nước khác mà vẫn bảo tồn được dân tộc (cùng truyền thống văn hoá) của mình nhờ – không cần biết cha là thuộc dòng giống nào – tự coi mình là người Do Thái nếu mẹ là người Do Thái. Người Hán cũng biết vậy nên đã mưu tính đưa Cù thị vào làm vợ lẽ Anh Tề để con của Cù thị (có với tình nhân của thị là Thiếu Quý) là thái tử Hưng máu Tàu 100% sau này lên ngôi đem đất nước dâng lại cho nhà Hán. Quả nhiên là như vậy: khi Minh vương Anh Tề mất, Hưng lên ngôi (tức Ai vương) tính cùng mẹ đem nước dâng cho nhà Hán. Khi tể tướng Lữ Gia biết, giết mẹ con Cù thị và sứ giả nhà Hán, đưa Dương vương có mẹ người Việt lên thay thì đã quá muộn. Lại gặp tướng giỏi nhà Hán là Phục Ba tướng quân nên dân Việt đành chịu thua. Một ngàn năm sau, khi phản công lại Lý Thường Kiệt ở Khâm châu và Liêm châu, nhà Tống lại đem tích “Cù thị vị quốc hi sinh” như một Chiêu quân cống Hồ ra ca tụng nhằm cổ võ quân sĩ. Đủ biết là sự hiện hữu của nước Nam Việt đối lập với Trung Quốc vẫn là một mối hận trong tâm thức người Tàu.

Cũng có lẽ nhờ giữ được truyền thống mẫu hệ trong phong tục nên đã có những cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng và Bà Triệu. Noi gương Triệu Đà, nhiều quan lại, sĩ tử người Hán, được cử qua “Hán hoá” dân Giao Chỉ, đã lấy vợ Việt không chịu trở về Trung quốc và con cháu không những đều trở thành người Việt mà còn nổi lên chống lại người Hán như trường hợp Sĩ Nhiếp, hoặc trường hợp Vạn Xuân vương Lý Bôn... Ngoài ra, nhiều tăng thống gốc Việt hay mẹ Việt như Tăng Khương Hội còn trở về Trung Quốc thuyết giảng đạo Phật theo văn hoá và tư tưởng Việt. Có thể suy luận là trong 1000 năm bị đô hộ, sở dĩ dân Việt Nam không bị đồng hoá là vì chính sách Hán hoá “lấy vợ Việt để đẻ con Hán” lại có hậu quả ngược lại, “gậy ông đập lưng ông”, là các con cháu có “mẹ Việt” đều trở thành người Việt, giữ gìn huyết thống Giao Chỉ và truyền thống văn hoá Việt, nhờ vậy đã không những không bị Hán hoá mà ngược lại, còn “Việt hoá” người Tàu qua đô hộ. Khả năng “Việt hoá” mạnh mẽ đó không những đã giúp dân Việt bảo vệ được nòi giống của mình trước người phương Bắc mà còn có thể, trong cuộc bành trướng về phương Nam, đồng hoá những dân tộc khác từng một thời hưng thịnh như Chiêm Thành, Chân Lạp, cũng như sau này đã “Việt hoá” những người Tàu Minh Hương để mở mang miền Nam.

Truyền thống lạc tướng - lạc hầu ẩn mình dưới những cơ chế làng xã cũng đã giúp cho dân Việt bảo tồn được nền tự chủ của mình trong suốt thời kỳ bị đô hộ, vì “phép vua thua lệ làng”: phép tắc của các quan thái thú Tàu cũng không thể vượt qua được lũy tre làng. Nhờ vậy mà “ý thức quốc gia” vẫn tiếp tục trường tồn tuy bị thu hẹp trong ý thức “làng nước”: làng chỉ là nước được thu nhỏ lại, và vị Thần Hoàng được thờ ở đình làng như những anh hùng dân tộc, những bậc thánh linh thiêng sẽ phù hộ cho người dân giữ làng giữ nước; còn làng là còn nước, bảo vệ làng là bảo vệ nước.


Để kết luận

Trong lịch sử thế giới từ cổ chí kim, từ Đông qua Tây, không một dân tộc nào như dân tộc Việt Nam, sau một ngàn năm bị đô hộ bởi một nước lớn và mạnh như Trung Quốc, không những vẫn bảo tồn được nòi giống mà còn vẫn giữ được cơ cấu quốc gia, và lại tiếp tục duy trì nền tự chủ của mình trong suốt thời gian một ngàn năm nữa. Đó là nhờ ở những nhân tố mà tôi đã nêu ở trên, cũng như nhờ ở sự khôn khéo của ông cha ta đã biết lúc cương lúc nhu, lúc tiến lúc lùi, tuy giữ hình thức triều cống ba năm một lần nhưng vẫn luôn luôn cảnh giác, coi phương Bắc là giặc, là kẻ thù, không bao giờ coi là bạn cả.

Chỉ có gần đây, trong khoảng thời gian 30 năm từ 1949 đến 1979, vì ý thức hệ, vì muốn độc tôn chiếm hữu quyền hành, giới cầm quyền Việt Nam mới coi kẻ thù truyền kiếp là huynh trưởng, là ân nhân, để rồi tự nguyện trở thành tên lính tiền phong, đem xương máu của chính đồng bào mình bảo vệ “ân nhân” vốn là kẻ thù đó. Khi bị người “anh em” dạy cho một bài học biên giới mới tỉnh ngộ thì đã muộn: chủ nghĩa bành trướng Đại Hán cũng vẫn y nguyên như 2000 năm về trước, cho dù được che giấu dưới chiêu bài “chủ nghĩa quốc tế vô sản”, “môi hở răng lạnh”; kế sách “Cù thị” vẫn tái diễn mà trong đó, [các lãnh tụ] Đảng Cộng sản Việt Nam không khác nào một thứ “thái tử Hưng”. Tuy nhiên, lần này, bá quyền Trung Quốc có nhiều hi vọng thành công: họ đang sử dụng ưu thế kinh tế, chính trị, quân sự của mình để tạo ra một sợi dây xích trói chặt Việt Nam bốn bề từ biên giới phía Bắc bọc qua Hoàng Sa - Trường Sa phía Đông, dọc theo sông Mê Kông từ Tây Tạng tới những nước đã bị khống chế như Lào, Cam Bốt phía Tây. Việt Nam hiện nay đã như cá nằm trong rọ. Bành trướng Đại Hán có thể tiếp tục thực hiện âm mưu làm bá chủ Đông Nam Á và Biển Đông mà gần như không còn chướng ngại vật Việt Nam.

Làm thế nào thoát được vòng cương toả của Trung Quốc để tạ lỗi với tổ tiên, với đất nước? Dù sớm hay muộn, chính quyền cộng sản Việt Nam cũng sẽ phải trả lời câu hỏi này.

--------------------------------------------------------------------------------
[1]Địa danh Trường Sa ở đây là thành phố cổ hiện đang là thủ phủ của tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Còn “Trường Sa” với tư cách là tên gọi quần đảo trên biển Đông thuộc chủ quyền Việt Nam, Trung Quốc gọi là “Nam Sa”. Đời Hán, thành Trường Sa là kinh đô của “Trường Sa quốc”, một trong số chư hầu của nhà Hán. Theo sử sách, vào khoảng sau năm 195 TrCN, Nam Việt vương Triệu Đà đã từng tấn công Trường Sa quốc, chiếm đất của nước này. Đây là hành động chủ yếu mang tính tự vệ, vì nhà Hán (sau khi Hán Cao tổ Lưu Bang đã chết, Lữ hậu thâu tóm chính sự) khi đó bộc lộ tham vọng thôn tính Nam Việt, mà Trường Sa là ngả tiến quân thuận tiện nhất. (Các chú thích đều của talawas.)
[2]Để độc giả tiện theo dõi đoạn trích dẫn sử liệu này của tác giả Phong Uyên, talawas xin tóm lược dòng chính lưu của cây phả hệ nhà Triệu (gồm cả thảy 5 đời vua) đã cai trị Nam Việt quốc, như sau: Triệu Vũ vương (tức Triệu Đà, trị vì từ 207 TrCN đến 137 TrCN), Triệu Văn vương (tức Hồ, cháu đích tôn của Vũ vương và cháu ngoại của An Dương vương Thục Phán nước Âu Lạc; 137 TrCN – 125 TrCN), Triệu Minh vương (tức Anh Tề, 125 TrCN – 113 TrCN), Triệu Ai vương (tức Hưng, 113 TrCN – 112 TrCN; thực ra Hưng là con của Cù thị [vợ lẽ Minh vương] với Thiếu Quý, tình nhân của Cù thị – cả Cù thị lẫn Quý đều là người Hán), và Triệu Dương vương (con của Minh vương với quý phi người Việt; 112 TrCN – 111 TrCN). Đến đây (năm 111 TrCN), nhà Triệu mất nước Nam Việt vào tay nhà Hán.
(T Đ)

9 Thủ Đoạn Xâm Lấn Của Trung Quốc


(Trích từ chương 2)

Tình hình Trung Quốc lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam từ năm 1954 đến nay

Trong một phần tư thế kỷ vừa qua, nhà cầm quyền Trung Quốc đã lần lượt lấn chiếm hết khu vực này đến khu vực khác của Việt Nam, từ khu vực nhỏ hẹp đến khu vực to lớn, từ khu vực quan trọng về quân sự đến khu vực quan trọng về kinh tế. Họ đã dùng đủ loại thủ đoạn, kể cả những thủ đoạn xấu xa mà các chế độ phản động của Trung Quốc trước kia không dùng. Dưới đây là một số thủ đoạn chính:

1- Từ xâm canh, xâm cư, đến xâm chiếm đất.

Lợi dụng đặc điểm là núi sông hai nước ở nhiều nơi liền một giải, nhân dân hai bên biên giới vốn có quan hệ họ hàng, dân tộc, phía Trung Quốc đã đưa dân họ vào những vùng lãnh thổ Việt Nam để làm ruộng, làm nương rồi định cư. Những người dân đó ở luôn chỗ có ruộng, nương, cuối cùng nhà cầm quyền Trung Quốc ngang ngược coi những khu vực đó là lãnh thổ Trung Quốc.

Khu Vực Trình Tường thuộc tỉnh Quảng Ninh là một thí dụ điển hình cho kiểu lấn chiếm đó. Khu vực này được các văn bản và các bản đồ hoạch định và cắm mốc xác định rõ ràng là thuộc lãnh thổ Việt Nam. Trên thực tế, trong bao nhiêu đời qua, những người dân Trình Tường, những người Trung Quốc sang quá canh ở Trình Tường đều đóng thuế cho nhà đương cục Việt Nam. Nhưng từ năm 1956, phía Trung Quốc tìm cách nắm số dân Trung Quốc sang làm ăn ở Trình Tường bằng cách cung cấp cho họ các loại tem phiếu mua đường vải và nhiều hàng khác, đưa họ vào công xã Đồng Tâm thuộc huyện Đông Hưng, khu tự trị Choang-Quảng Tây. Nhà đương cục Trung Quốc nghiễm nhiên biến một vùng lãnh thổ Việt Nam dài 6 kí-lô-mét, sâu hơn 1300 kí-lô-mét thành sở hữu tập thể của một công xã Trung Quốc. Từ đó, họ đuổi những người Việt Nam đã nhiều đời nay làm ăn sinh sống ở Trình Tường đi nơi khác, đặt đường dây điện thoại, tự cho phép đi tuần tra khu vực này, đơn phương sửa lại đường biên giới sang đồi Khâu Thúc của Việt Nam. Tiếp đó, họ đã gây ra rất nhiều vụ hành hung, bắt cóc công an vũ trang Việt Nam đi tuần tra theo đường biên giới lịch sử và họ phá hoại hoa màu của nhân dân địa phương. Trình Tường không phải là một trường hợp riêng lẻ, còn đến trên 40 điểm khác mà phía Trung Quốc tranh lấn với thủ đoạn tương tự như xã Thanh Lòa, huyện Cao Lộc (mốc 25, 26, 27) ở Lạng Sơn, Khẳm Khau (mốc 17-19) ở Cao Bằng, Tả Lũng, Làn Phù Phìn, Minh Tân (mốc 14) ở Hà Tuyên, khu vực xã Nặm Chay (mốc 2-3) ở Hoàng Liên Sơn với chiều dài hơn 4 kí-lô-mét, sâu hơn 1 kí-lô-mét, diện tích hơn 300 héc-ta. Có thể nói đây là một kiểu chiếm đất một cách êm lặng.

2- Lợi dụng việc xây dựng các công trình hữu nghị để đẩy lùi biên giới sâu vào lãnh thổ Việt Nam.

Năm 1955, tại khu vực Hữu nghị quan, khi giúp Việt Nam khôi phục đoạn đường sắt từ biên giới Việt-Trung đến Yên Viên, gần Hà Nội, lợi dụng long tin của Việt Nam, phía Trung Quốc đã đặt điểm nối ray đường sắt Việt-Trung sâu trong lãnh thổ Việt Nam trên 300 mét so với đường biên giới lịch sử, coi điểm nối ray là điểm mà đường biên giới giữa hai nước đi qua. Ngày 31 tháng 12 năm 1974, Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đã đề nghị Chính phủ hai nước giao cho nghành đường sắt hai bên điều chỉnh lại đường nối ray cho phù hợp đường biên giới lịch sử nhưng họ một mực khước từ bằng cách hẹn đến khi hai bên bàn toàn bộ vấn đề biên giới thì sẽ xem xét. Cho đến nay, họ vẫn trắng trợn ngụy biện rằng khu vực hơn 300 mét đường sắt đó là đất Trung Quốc với lập luần rằng “không thể có đường sắt của nước này đặt trên lãnh thổ nước khác”. Cũng tại khu vực này, phía Trung Quốc đã ủi nát mốc biên giới số 18 nằm cách cửa Nam quan 100 mét trên đuờng quốc lộ để xóa vết tích đường biên giới lịch sử, rồi đặt cột kí-lô-mét 0 đường bộ sâu vào lãnh thổ Việt Nam trên 100 mét, coi đó là vị trí đường quốc giới giữa hai nước ở khu vực này.

Như vậy, họ đã lấn chiếm một khu vực liên hoàn từ đường sắt sang đường bộ thuộc xã Bảo Lâm, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn của Việt Nam, dài 3100 kí-lô-mét và vào sâu đất Việt Nam 0,500 kí-lô-mét. Năm 1975, tại khu vực mốc 23 (xã Bảo Lâm, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn), họ định diễn lại thủ đoạn tương tự khi hai bên phối hợp đặt đường ống dẫn dầu chạy qua biên giới: phía Việt Nam đề nghị đặt điểm nối ống dẫn dầu đúng đường biên giới, họ đã từ chối, do đó bỏ dở công trình này. Khi xây dựng các công trình cầu cống trên sông, suối biên giới, phía Trung Quốc cũng lợi dụng việc thiết kế kỹ thuật làm thay đổi dòng chảy của sông, suối về phía Việt Nam, để nhận đường biên giới có lợi cho phía Trung Quốc.

Cầu ngầm Hoành Mô thuộc tình Quảng Ninh được Trung Quốc giúp xây dựng vào năm 1968. Một thời gian dài sau khi cầu được xây dựng xong, hai bên vẫn tôn trọng đường biên giới ở giữa cầu ; vật liệu dự trữ để sửa chữa cầu sau này cũng được đặt ở mỗi bên với số lượng bằng nhau tính theo đường biên giới giữa cầu. Nhưng do Trung Quốc có sẵn ý đồ chỉ xây một cống nước chảy nằm sát bờ Việt Nam nên lưu lượng dòng chảy đã chuyển hẳn sang phía Việt Nam, từ đó phía Trung Quốc dịch đường biên giới trên cầu quá sang đất Việt Nam. Thủ đoạn như vậy cũng được thực hiện đối với cầu ngầm Pò Hèn (Quảng Ninh), đập Ái Cảnh (Cao Bằng), cầu Ba Nậm Cúm (Lai Châu)…

3- Đơn phương xây dựng các công trình ở biên giới lấn sang đất Việt Nam.

Trên đoạn biên giới đất liền cũng như ở các đoạn biên giới đi theo sông suối, tại nhiều nơi, phía Trung Quốc đã tự tiện mở rộng xây dựng các công trình để từng bước xâm lấn đất.

Tại khu vực mốc 53 (xã Đàm Thủy, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng) trên sông Quy Thuận có thác Bản Giốc, từ lâu là của Việt Nam và chính quyền Bắc Kinh cũng đã công nhận sự thật đó. Ngày 29 tháng 2 năm 1976, phía Trung Quốc đã huy động trên 2000 người, kể cả lực lượng vũ trang lập thành hàng rào bố phòng dày đặc bao quanh toàn bộ khu vực thác Bản Giốc thuộc lãnh thổ Việt Nam, cho công nhân cấp tốc xây dựng một đập kiên cố bằng bê-tông cốt sắt ngang qua nhánh sông biên giới, làm việc đã rồi, xâm phạm lãnh thổ Việt Nam trên sông và ở cồn Pò Thoong và ngang nhiên nhận cồn này là của Trung Quốc.

Các thị trấn Ái Điểm (đối diện với Chi Ma, Lạng Sơn), Bình Mãng (đối diện Sóc Giang, Cao Bằng) vốn đã nằm sát các mốc giới 43 và 114, lại ngày càng được phía Trung Quốc mở rộng ra lấn sang đất Việt Nam từ hang chục đến hàng trăm mét với Công trình nhà cửa, trường học, khu phố… Bằng cách tổ chức lâm trường, trồng cây gây rừng, làm đường chắn lửa, đặt hệ thống điện cao thế, điện thoại lấn vào lãnh thổ Viêt Nam, Trng Quốc đã biến nhiều vùng đất khác của Việt Nam thành đất của Trung Quốc.

4- Từ mượn đất của Việt Nam đến biến thành lãnh thổ của Trung Quốc.

Ở một số địa phương, do địa hình phức tạp, điều kiện sinh hoạt của dân cư Trung Quốc gặp khó khăn, theo yêu cầu của phía Trung Quốc, Việt Nam đã cho Trung Quốc mượn đường đi lại, cho dùng mỏ nước, cho chăn trâu, lấy củi, đặt mồ mã… trên đất Việt Nam. Nhưng lợi dụng thiện chí đó của Việt Nam, họ đã dần dần mặc nhiên coi những vùng đất mượn này là đất Trung Quốc. Khu vực Phia Un (mốc 94-95) thuộc huyện Trà Lĩnh, tỉnh Cao Bằng là điển hình cho kiểu lấn chiếm này. Tại đây, mới đầu phía Trung Quốc mượn con đường mòn, rồi tự ý mở rộng mặt đường để ô-tô đi lại được vào khu vực mỏ của Trung Quốc, đặt đường dây điện, đưa dân đến ở ngày càng đông, lập làng bản mới. Dựa vào “thực tế” đó, từ 1956 họ không thừa nhận đường biên giới lịch sử chạy trên đỉnh núi Phía Un mà đòi biên giới chạy xa về phía nam con đường, sâu vào đất Việt Nam trên 500 mét. Lý lẽ của họ là nếu không phải đất của Trung Quốc sao họ lại có thể làm đường ô-tô, đặt đường điện thoại được… Nguyên nhân chủ yếu của việc lấn chiếm là vì khu vực Phía Un có mỏ măng-gan.

5- Xê dịch và xuyên tạc pháp lý các mốc quốc giới để sửa đổi đường biên giới.

Ngoài việc lợi dụng một số các mốc giới đã bị Trung Quốc xê dịch từ trước sai với nguyên trạng đường biên giới lịch sử để chiếm giữ trái phép đất Việt Nam, nay phía Trung Quốc cũng tự ý di chuyển mốc ở một số nơi, hoặc lén lút đập phá, thủ tiêu các mốc không có lợi cho họ như ở khu vực Chi Ma (Lạng Sơn), khu vực mốc 136 ở Cao Bằng… Đối với những trường hợp như vậy, họ đều khước từ đề nghị của phía Việt Nam về việc hai bên cùng điều tra và lập biên bản xác nhận. Ngay tại một số nơi mà vị trí mốc giới đặt đúng với đường biên giới đã rõ ràng chạy giữa hai mốc như khu cực Kùm Mu-Kim Ngân-Mẫu Sơn (mốc 41, 42, 43) ở Lạng Sơn dài trên 9 ki-lô-mét, sâu vào đất Việt Nam 2,5 ki-lô-mét, diện tích gần 1000 héc-ta, khu vục Nà Pảng – Kéo Trình (mốc 29, 30, 31) ở Cao Bằng, dài 6,450 ki-lô-mét, sâu vào đất Việt Nam 1,300 ki-lô-mét, diện tích gần 200 héc-ta.

6- Làm đường biên giới lấn sang đất Việt Nam.

Để chuẩn bị cho các cuộc tiến công xâm lược Việt Nam, liên tiếp trong nhiều năm trước, phía Trung Quốc đã thực hiện kế hoạch làm đường biên giới quy mô lớn nấp dưới danh nghĩa là để “cơ giới hóa nông nghiệp”. Đặc biệt là từ năm 1974 lại đây, họ đã mở ồ ạt những chiến dịch làm đường có nơi huy động một lúc 8,000 người vào công việc này. Trong khi làm các đường đó, họ phá di tích về đường biên giới, lịch sử, nhiều nơi họ đã lấn vào lãnh thổ Việt Nam, chỉ tính từ tháng 10 năm 1976 đến năm 1977, bằng việc làm đường biên giới họ đã lấn vào đất Việt Nam tại hàng chục điểm, có điểm diện tích rộng trên 32 héc-ta, sâu vào đất Việt Nam trên 1 kí-lô-mét như khu vực giữa mốc 63-65 thuộc huyện Trà Lĩnh, tỉnh Cao Bằng hay khu vực giữa mốc 1-2 Cao Ma Pờ thuộc tỉnh Hà Tuyên dài 4 kí-lô-mét, sâu vào đất Việt Nam 2 kí-lô-mét.

7- Lợi dụng việc vẽ bản đồ giúp Việt Nam để chuyển dịch đường biên giới.

Năm 1955-1956, Việt Nam đã nhờ Trung Quốc in lại bản đồ nước Việt Nam tỷ lệ 1/100.000. Lợi dụng lòng tin của Việt Nam, họ đã sửa ký hiệu một số đoạn đường biên giới dịch về phía Việt Nam, biến vùng đất của Việt Nam thành đất Trung Quốc. Thí dụ: họ đã sửa ký hiệu ở khu vực thác Bản Giốc (mốc 53) thuộc tỉnh Cao Bằng, nơi họ định chiếm một phần thác-Bản Giốc của Việt Nam và cồn Pò Thoong.

8- Dùng lực lượng vũ trang uy hiếp và đóng chốt để chiếm đất.

Trên một số địa bàn quan trọng, phía Trung Quốc trắng trợn dùng lực lượng võ trang để cố đạt tới mục đích xâm lấn lãnh thổ. Tại khu vực Trà Mần-Suối Lũng (mốc 136-137) thuộc huyện Bảo Lạc, tỉnh Cao Bằng, năm 1953 Trung Quốc đã cho một số hộ dân Trung Quốc sang xâm cư ở cùng dân của Việt Nam, sau đó, họ tiếp tục đưa dân sang thêm hình thành ba xóm với 16 hộ, 100 nhân khẩu mà họ đặt tên Si Lũng theo tên một làng ở Trung Quốc gần đó. Tuy thế, cho đến năm 1957 phía Trung Quốc vẫn thừa nhận khu vực nầy là đất của Việt Nam. Từ năm 1957 trở đi, họ tiến hành việc dựng trường học, bắc dây truyền thanh đào hố khai thác than chì rồi ngang nhiên cắm cờ biểu thị chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc.

Tháng 6 năm 1976, họ đã trắng trợn đưa lực lượng vũ trang đến đóng chốt để đàn áp quần chúng đấu tranh và ngăn cản việc tuần tra của Việt Nam vào khu vực này, chiếm hẳn một vùng đất của Việt Nam trên 3,2 kí-lô-mét, có mỏ than chì.

Ở khu vực giữa mốc 2-3 thuộc xã Nậm Chảy, huyện Mường Khương, tỉnh Hoàng Liên Sơn cũng xảy ra tình hình như vậy. Năm 1967-1968, nhiều hộ người Mèo thuộc huyện Mã Quan, tỉnh Vân Nam (Trung Quốc) chạy sang định cư ở đây. Phía Việt Nam đã yêu cầu phiá Trung Quốc đưa số dân đó trở về Trung Quốc, nhưng họ đã làm ngơ, lại tiếp tục tăng số dân lên đến 36 hộ gồm 152 người, vào vùng nầy thu thuế, phát phiếu vải cho dân, đặt tên cho xóm dân Mèo này là “Sin Sài Thàng”, tên của một bản Trung Quốc ở bên kia biên giới cách khu vực này 3 ki-lô-mét. Mặc dù phía Việt Nam đã nhiều lần kháng nghị, họ vẫn không rút số dân đó đi, trái lại năm 1976 còn đưa lực lượng vũ trang vào đóng chốt chiếm giữ. Nay họ đã lập thêm đường dây điện thoại, loa phóng thanh, dựng trường học, tổ chức đội sản xuất, coi là lãnh thổ Trung Quốc.

9- Đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam (3).

Quần đảo Hoàng Sa (mà Trung Quốc gọi là Tây Sa) cách Đà Nẵng khoãng 120 hải lý về phía đông. Phía Việt Nam có đầy đủ tài liệu để chứng minh rằng quần đảo này, cũng như quần đảo Trường Sa (mà Trung Quốc gọi là Nam Sa) ở phía nam, là lãnh thổ Việt Nam. Từ lâu, nhân dân Việt Nam đã phát hiện và khai thác quần đảo Hoàng Sa; nhà Nguyễn đã chính thức thực hiện chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo đó. Sau khi thiết lập chế độ bảo hộ nước Việt Nam từ giữa thế kỷ XIX, Pháp, nhân danh nước Việt Nam, đã lập trạm khí tượng mà các số liệu được cung cấp liên tục trong mấy chục năm cho Tổ Chức Khí tượng thế giới (OMM) dưới ký hiệu Hoàng Sa (Pattle). Việt Nam đã liên tục thực hiện chủ quyền của mình đối với quần đảo này. Vấn đề chủ quyền của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa là rõ rang và không thể chối cãi được.

Nhưng sau khi quân đội Mỹ rút khỏi Việt Nam theo quy định của Hiệp định Pa-ri ngày 27 tháng 1 năm 1973, và nhân lúc nhân dân Việt Nam đang đẩy mạnh cuộc đấu tranh giải phóng miền nam Việt Nam và ngụy quyền miền nam sắp sụp đổ, nhà cầm quyền Bắc Kinh đã trắng trợn dùng lực lượng vũ trang chiếm quần đảo Hoàng Sa.

Cách họ đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa vẫn là cách họ đã dùng để lấn chiếm đất đai của các nước láng giềng, nhưng với một sự phản bội hèn hạ vì họ luôn luôn khoe khoang là “hậu phương đáng tin cậy của nhân dân Việt Nam anh em”. Đại để sự kiện diễn biến như sau:

Ngày 26 tháng 12 năm 1973, Bộ ngoại giao Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa thông báo cho Chính phủ nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa biết ý định của mình sẽ tiến hành thăm dò dầu lửa trong vịnh Bắc Bộ và đề nghị hai nước tiến hành đàm phán để xác định chính thức biên giới giữa hai nước trong vịnh Bắc Bộ

Ngày 11 tháng 1 nắm 1974, người phát ngôn Bộ ngoại giao Trung Quốc tuyên bố đảo Tây Sa (tức là Hoàng Sa của Việt Nam), quần đảo Nam Sa (tức là Trường Sa của Việt Nam) là lãnh thổ của Trung Quốc và không cho ai xâm phạm chủ quyền, lãnh thổ của Trung Quốc.

Ngày 18 tháng 1 năm 1974, Chính phủ Trung Quốc trả lời phiá Việt Nam, đại ý nói: đồng ý đề nghị đàm phán về vịnh Bắc Bộ, nhưng không đồng ý cho nước thứ ba vào thăm dò, khai thác vịnh Bắc Bộ, thực tế là họ ngăn cản Việt Nam hợp tác với Nhật-bản, Pháp, Ý trong việc thăm dò, khai thác thềm lục địa Việt Nam trong vịnh Bắc Bộ.

Ngày 19 tháng 1 năm 1974, với một lực lượng lớn hải quân và không quân, Trung Quốc tiến hành đánh quân đội của chính quyền Sài Gòn đóng ở quần đảo Hoàng Sa và họ gọi cuộc hành quân xâm lược quần đảo này là “cuộc phản công tự vệ”.

Từ năm 1973 về trước, phía Trung Quốc đã lấn chiếm, gây khiêu khích ở nhiều nơi trên biên giới Việt-Trung. Từ khi họ đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa, các sự kiện biên giới do họ gây ra, các vụ lấn chiếm đất đai Việt Nam ngày càng tăng:

Năm 1974: 179 vụ.

Năm 1975: 294 vụ.

Năm 1976: 812 vụ.

Năm 1977: 873 vụ.

Năm 1978: 2175 vụ.