Hát với “IDOL” MINH TUYẾT
Được hát với thần tượng MINH TUYẾT, anh chàng bị hồn vía lên mây, quên cả lời... ha ha...
Kính chuyển nhạc videos... Và xin cảm ơn quý vị đã xem...
NL
nhạc phẩm "Người Việt Nam"
Xin giới thiệu nhạc phẩm mới "Người Việt Nam" của Nhạc sĩ Sơn Hạ, qua tiếng hát Nhật Lê
CHIẾN TRANH VIÊT-HÁN , CUỘC CHIẾN TỐI HẬU .
Trung Quốc nằm gai nếm mật, chờ ngày phục hận?
The Economist
Dịch giả : Nguyễn Quốc KhảiSử Gia Edward Carr nhận định: Trung Quốc khẳng định rằng tăng cường sức mạnh quân sự và ảnh hưởng ngoại giao không là mối đe dọa đối với ai. Thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ, không đoan chắc như vậy.
Vào năm 492 trước Công Lịch, vào cuối Thời Kỳ Xuân Thu trong lịch sử Trung Hoa, Vua Câu Tiễn của nước Việt tại vùng Chiết Giang hiện nay bị bắt làm tù binh sau một trận chiến chống lại Vua Phù Sai của nước Ngô, một quốc gia láng giềng về phía Bắc. Câu Tiễn bị bắt làm việc ở chuồng ngựa của Vua Ngô, nhưng vẫn giữ nhân cách của mình trong thời gian bị giam giữ nên được Vua Phù Sai dần dần kính nể. Sau vài năm, Vua Phù Sai cho phép Câu Tiễn trở về quê quán với tước hiệu của một chư hầu.
Sức mạnh của Trung Quốc |
Câu Tiễn không bao giờ quên được nỗi nhục. Đêm nằm trên giường kết bằng cành cây và hàng ngày liếm một túi mật treo ở trong phòng để nuôi dưỡng ý chí trả thù. Nước Việt xem ra trung thành với Vua Ngô. Nước Việt lại có nhiều thợ thủ công khéo léo và gỗ tốt nên Vua Ngô xây nhiều cung điện và lâu đài khiến mang nợ. Câu Tiễn làm Vua Ngô lãng trí với nhiều gái đẹp nhất của nước Việt (trong đó có Tây Thi), hối lộ quan chức của nước Ngô, mua ngũ cốc để làm cạn kho lương thực của Vua Phù Sai. Trong khi vương quốc của Phù Sai suy sụp, nước Việt trở nên giàu có và gây dựng một đạo quân mới. Câu Tiễn chờ đợi thời cơ trong suốt 8 năm trời. Vào năm 482 trước Công Lịch, tin tưởng vào ưu thế của mình, Câu Tiễn đưa gần 50.000 quân tiến về phía Bắc. Sau một vài trận chiến, Câu Tiễn đánh bại Phù Sai và nước Ngô.
Câu chuyện nằm gai nếm mật rất quen thuộc đối với người dân Trung Hoa như câu chuyện Vua Alfred và những chiếc bánh đối với người Anh, và Tổng Thống George Washington và loại cây anh đào đối với dân Mỹ. Vào đầu thế kỷ 20, Vua Câu Tiễn trở thành một biểu tượng của sự phản kháng của Trung Hoa chống lại những thương ước buộc nước này phải mở rộng hải cảng và những nhượng bộ khác do ngoại quốc đòi hỏi trong những năm Trung Hoa bị hạ nhục biến thành thuộc địa.
Câu chuyện ngụ ngôn về Vua Câu Tiễn được kết luận bởi một số người như là một báo động đối với việc Trung Quốc trở thành một đại cường quốc hiện nay. Kể từ khi Đặng Tiểu Bình quyết định cải tổ kinh tế vào năm 1978, Trung Quốc chỉ nói về hòa bình. Còn quá yếu về mặt quân sự và kinh tế để có thể thử thách Hoa Kỳ, Trung Quốc chú trọng về việc làm giàu. Ngay cả khi Trung Quốc tăng cường sức mạnh và xây dựng lại quân đội, Tây Phương và Nhật Bản mắc nợ và bán kỹ thuật cho Trung Quốc. Cho đến nay Trung Quốc vẫn kiên nhẫn, nhưng cái ngày quốc gia này có thể thực hiện ý muốn của mình đã gần kề.
Tuy nhiên cũng có một cách giải thích khác về chuyện vua Câu Tiễn. Học giả Paul Cohen của Đại Học Harvard viết về vua Trung Quốc giải thích rằng người dân Trung Quốc nhìn Vua Câu Tiễn như một tấm gương kiên trì và tận tụy. Học sinh được dạy rằng nếu muốn thành công thì phải như vua Câu Tiễn, nằm gai nếm mật – những thành quả lớn đòi hỏi sự hi sinh và phải có mục đích vững chắc. Vua Câu Tiễn này tượng trưng cho sự tự cải tiến và tận tụy, không phải là sự trả thù.
Vào thế kỷ 21 này Trung Quốc sẽ theo Vua Câu Tiễn nào? Trung Quốc sẽ hội nhập hay không vào thế giới Tây Phương nơi mà mọi người không mong muốn gì hơn là có cơ hội thành công và thụ hưởng kết quả của sự làm việc vất vả? Hay là khi sự giầu có và sức mạnh của Trung Quốc vượt qua tất cả các nước ngoại trừ Hoa Kỳ, Trung Quốc sẽ trở thành một mối đe dọa – một quốc gia tức giận muốn phục thù những sai trái trong quá khứ và buộc những nước khác phải uốn mình theo ý muốn của Trung Quốc? Jim Steinberg, Phụ Tá Bộ Trưởng Ngoại Giao của Hoa Kỳ nhận xét rằng sự lựa chọn vai trò của Trung Quốc là “một vấn đề to lớn của thời đại của chúng ta”. Nền hòa bình và thịnh vượng của thế giới phụ thuộc vào con đường lựa chọn của Trung Quốc.
Một số người lập luận rằng hiện nay Trung Quốc vướng mắc quá sâu vào mạng lưới toàn cầu hóa để có thể làm đảo lộn kinh tế thế giới bằng chiến tranh hoặc áp bức. Thương mại đã mang lại sự thịnh vượng. Trung Quốc mua nguyên liệu và bộ phận ở nước ngoài và bán sản phẩm chế tạo trên thị trường ngoại quốc. Hiện nay Trung Quốc có trong tay $2,600 tỉ tỉ dự trữ ngoại tệ. Tại sao Trung Quốc lại muốn phá xập hệ thống đã phục vụ nước này một cách khá tốt đẹp?
Nhưng quan điểm này quá lạc quan. Trong quá khứ sự hội nhập đến trước xung đột. Thật vậy, châu Âu nằm trong biển lửa vào năm 1914 mặc dù Đức là thị trường xuất cảng lớn thứ hai của Anh và Anh là thị trường lớn nhất của Đức. Nhật Bản trở nên giàu có và gia nhập vào nhóm các cường quốc châu Âu trước khi muốn biến châu Á thành thuộc địa một cách thô bạo.
Một số người khác có quan điểm cực đoan trái ngược lập luận rằng Trung Quốc và Hoa Kỳ bắt buộc là kẻ thù của nhau. Theo những người này kể từ khi Đế Quốc Sparta lãnh đạo Liên Minh Peloponnesian chống lại Athens (theo lịch sử Hy Lạp 600 năm trước Công Lịch), những cường quốc suy thoái không chịu nhượng bộ nhanh chóng để thỏa mãn những cường quốc đang vươn lên. Theo kịch bản này, khi sức mạnh kinh tế và quân sự tăng lên, quyền hạn và tham vọng của Trung Quốc cũng sẽ tăng lên. Cuối cùng, Trung Quốc không còn kiên nhẫn được nữa vì Hoa Kỳ sẽ không muốn từ bỏ vai trò lãnh đạo.
Trung Quốc và các nước lân cận |
Lý do để lạc quan
Quan điểm trên quá đơn sơ và bi quan. Trung Quốc quyết tâm đòi hỏi chủ quyền lãnh thổ về Đài Loan, Nam Hải, một số hải đảo và tranh chấp về biên giới với Ấn Độ. Tuy nhiên không giống những đại cường quốc trước 1945, Trung Quốc không tìm thuộc địa. Và khác với Liên Bang Xô Viết, Trung Quốc không có chủ thuyết để xuất cảng. Thật sự, lý tưởng cấp tiến của Hoa Kỳ có sức thuyết phục hơn là chủ nghĩa Cộng Sản, đạo Khổng hâm nóng, hoặc bất cứ cái gì khác mà Trung Quốc cống hiến. Khi hai nước đều có võ khí nguyên tử, không đáng công để họ giao chiến với nhau.
Trên thực tế, sự giao tiếp giữa những cường quốc đang vươn lên và những cường quốc đang suy thoái không đơn giản. Hai lần nước Anh lo sợ một nước Đức bành trướng chế ngự châu Âu và cả hai lần nước Anh đã tham chiến. Tuy nhiên, Hoa Kỳ giành vai trò lãnh đạo thế giới khỏi tay của Anh và hai nước vẫn tiếp tục là đồng minh của nhau. Sau Đệ Nhị Thế Chiến, Nhật Bản và Đức vươn dậy từ đám tro tàn và trở thành cường quốc kinh tế thứ hai và thứ ba của thế giới mà không có một dấu hiệu nào muốn thử thách Hoa Kỳ.
Những lý thuyết gia về bang giao quốc tế dành nhiều suy nghĩ về sự suy tàn của những đế quốc. Sự hiểu biết sâu sa về “lý thuyết về chuyển tiếp quyền lực” (power-transition theory) cho thấy rằng những cường quốc như Đức và Nhật Bản sau chiến tranh không thách thức trật tự thế giới khi họ vươn lên. Nhưng những cường quốc bất mãn như Đức và Nhật Bản thời tiền chiến nghĩ rằng hệ thống bố trí và duy trì của những cường quốc đang ngự trị tìm cách chống họ. Trong thời đại hỗn loạn của địa chính (geopolitics), những quốc gia này tin rằng những quyền lợi chính đáng của mình sẽ bị phủ nhận, trừ khi họ ép buộc các nước khác phải tôn trọng.
Theo nhận định của GS David Lampton thuộc Shool of Advanced International Studies, Johns Hopkins University, trong gần cả một thập niên vừa qua hai đại cường quốc tiến gần đến tình trạng được gọi là hai cuộc đánh cá. Một cách tổng quát, Trung Quốc nằm trong trật tự hậu chiến của Hoa Kỳ, đánh cá rằng những nước khác trên thế giới cần sự giúp đỡ và thị trường của Trung Quốc, sẽ cho phép Trung Quốc làm giàu hơn và mạnh hơn. Hoa Kỳ không ngăn cản sự vươn lên của Trung Quốc với niềm tin rằng sự thịnh vượng cuối cùng sẽ biến Trung Quốc thành một trong những quốc gia ủng hộ chế độ - một “cổ đông có trách nhiệm” theo cách nói của Ông Robert Zoellick, Thứ Trưởng Ngoại Giao dưới thời Tổng Thống George W. Bush và nay là Chủ Tịch Ngân Hàng Thế Giới.
Trong gần cả một thập niên vừa qua, bỏ ra ngoài những xích mích nhỏ, hai cuộc đánh cá trên đã thành công. Trước 2001, Trung Quốc và Hoa Kỳ tranh cãi nhau về Đài Loan, Hoa Kỳ ném bom vào Tòa Đại Sứ Trung Quốc tại Belgrade và vụ đụng độ làm chết người giữa phi cơ do thám EP3 của Hoa Kỳ và một chiến đấu cơ của Trung Quốc. Nhiều bình luận gia vào lúc đó nghĩ rằng Hoa Kỳ và Trung Quốc ở trong chiều hướng nguy hiểm, nhưng những nhà lãnh đạo Trung Quốc và Hoa Kỳ đã không theo đuổi con đường này. Kể từ đó, Hoa Kỳ bận rộn với việc chống khủng bố, và chọn lựa cách ứng phó một cách đơn giản với Trung Quốc. Những công ty Mỹ vui vẻ được tiếp cận với thị trường của quốc gia này. Trung Quốc cho chính phủ Hoa Kỳ vay một số tiền lớn lao.
Điều này rất phù hợp với Trung Quốc. Đã từ lâu Trung Quốc kết luận rằng cách tốt nhất để xây dựng quyền lực quốc gia toàn diện là phát triển kinh tế. Theo sự phân tách của Trung Quốc qua những sách trắng và những bài diễn văn vào cuối thập niên 1990 và đầu thập niên 2000, Trung Quốc cần một “Quan Niệm An Ninh Mới.” Phát triển cần sự ổn định. Điều này đòi hỏi rằng những quốc gia lân cận với Trung Quốc không cảm thấy bị đe dọa.
Để làm các nước láng giềng an tâm cũng như để chứng tỏ mình là một công dân tốt, Trung Quốc gia nhập những tổ chức quốc tế mà một thời họ đã xa lánh. Đây là cách an toàn nhất để đối phó với ảnh hưởng của Hoa Kỳ. Trung Quốc lãnh đạo cuộc thương thuyết giữa sáu nước để ngăn chặn chương trình nguyên tử của Bắc Hàn. Chính phủ Trung Quốc ký kết Hiệp Định Chống Việc Thử Nghiệm Võ Khí Nguyên Tử Toàn Diện (Comprehensive Test-Ban Treaty) và một cách tổng quát chấm dứt phổ biến võ khí (mặc dù những công ty đểu cáng vẫn tiếp tục việc này). Trung Quốc gửi nhiều nhân viên tham dự vào những hoạt động duy trì hòa bình của Liên Hiệp Quốc hơn là các thành viên thường trực của Hội Đồng An Ninh hoặc bất cứ quốc gia nào trong tổ chức Liên Minh Bắc Đại Tây Dương (NATO).
Chắc chắn là vẫn còn có những tranh chấp và khác biệt. Nhưng những nhà ngoại giao, những người làm chính sách, và giới học giả tự cho phép mình tin tưởng rằng trong thời đại nguyên tử, Trung Quốc có thể trỗi dậy thành một đại cường quốc mới một cách hòa bình. Tuy nhiên, sự tin tưởng đó đã yếu đi. Trong vài tháng qua, Trung Quốc đã tranh cãi với Nhật về việc một chiếc thuyền đánh cá của Trung Quốc đã đâm vào ít nhất một lần, nếu không phải là hai, hai chiến hạm bảo vệ duyên hải ngoài khơi của một chuỗi đảo mà Nhật Bản gọi là Senkaku và Trung Quốc gọi là Diaoyu (Điểu Ngư).
Trước đó, Trung Quốc đã không ủng hộ Nam Hàn về vụ một chiến hạm của Hải Quân Nam Hàn bị bắn chìm và 46 thủy thủ bị thiệt mạng – mặc dầu một nhóm chuyên viên quốc tế đã kết luận rằng chiến hạm Cheonan bị tấn công bởi một tầu ngầm của Bắc Hàn. Khi Hoa Kỳ và Nam Hàn phản ứng lại bằng cách tổ chức một số cuộc tập dượt hỗn hợp ở Hoàng Hải (Yellow Sea), Trung Quốc đã phản đối và đã buộc một cuộc tập dượt phải dời qua biển Nhật Bản. Và khi Bắc Hàn nã đạn vào một hòn đảo của Nam Hàn vào tháng vừa qua, rõ ràng là Trung Quốc lên án Bắc Hàn một cách miễn cưỡng.
Trung Quốc cũng đã bắt đầu xếp việc dành chủ quyền trên những phần rất lớn của Nam Hải vào danh sách sáu “quan tâm hàng đầu” của Trung Quốc – một ngôn ngữ mới đã làm những nhà ngoại giao lo ngại. Khi các nước hội viên của Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (Association of South-East Asian Nations - ASEAN) than phiền tại buổi họp tại Hà Nội vào mùa Hè, Bộ Trưởng Ngoại Giao của Trung Quốc Dương Khiết Trì (Yang Jiechi) đã tức giận tuyên bố: “Tất cả quý vị nhớ rằng bao nhiêu thịnh vượng kinh tế của quý vị dựa vào chúng tôi”. Theo báo cáo, ông ta cũng phản ứng bằng cách nhổ nước bọt.
Năm ngoái, một bài xã luận đầy ác ý của tờ Nhật Báo Nhân Dân của Trung Quốc đã tấn công Ấn Độ sau khi Ông Manmohan Singh Thủ Tướng của nước này viếng thăm một địa điểm trong vùng tranh chấp gần Tây Tạng; Tổng Thống Barack Obama bị đối xử một cách bất xứng, lần thứ nhất trong cuộc viếng thăm Bắc Kinh và lần thứ hai tại Hội Nghị về biến đổi khí hậu tại Copenhagen. Tại đây một viên chức ngoại giao cấp thấp của Trung Quốc chỉ chỏ ngón tay vào nhà lãnh đạo của thế giới tự do như để quở trách. Những chiến hạm của Trung Quốc liên tiếp quấy nhiễu tàu của hải quân Hoa Kỳ và Nhật Bản, kể cả khu trục hạm USS John S. McCain và tàu tuần thám USNS Impeccable.
Những điều này xem ra nhỏ bé nhưng mang tính cách quan trọng vì cả đôi bên đều dò dẫm ý đồ của nhau. Hoa Kỳ liên tục tìm kiếm những dấu hiệu cho thấy Trung Quốc chấm dứt quan hệ bình thường và trở thành gây hấn – Trung Quốc cũng tìm kiếm những dấu hiệu chứng tỏ rằng Hoa Kỳ và các nước đồng minh cấu kết với nhau để ngăn cản sự vươn lên của Trung Quốc. Mọi sự việc đều bị chi phối bởi sự ngờ vực có tính cách chiến lược.
Chăm chú nhìn qua ống kính này, những người theo dõi tình hình Trung Quốc phát hiện một sự thay đổi. Ông Richard Armitage, Thứ Trưởng Ngoại Giao dưới thời Tổng Thống George W. Bush nói: “Chính sách ngoại giao thân thiện đã qua rồi.” Yukio Okamoto, một chuyên viên về an ninh Nhật Bản nhận xét rằng: “Khát vọng quyền lực của Trung Quốc đã quá rõ rệt”. Những nhà ngoại giao yêu cầu được giấu tên tuổi nói về những ngờ vực và lo ngại trong sự giao tiếp với Trung Quốc. Mặc dù sự liên lạc hàng ngày giữa các bộ của hai chính phủ vẫn trôi chảy, nhưng “sự ngờ vực chiến lược giữa Trung Quốc và Hoa Kỳ tiếp tục gia tăng” theo nhận xét của chuyên gia về Trung Quốc Boonie Glaser của Trung Tâm Nghiên Cứu chiến Thuật và Quốc Tế (Centre for Strategic and International Studies) tại Washington-DC.
Chẳng có gì là bất khả vãn hồi với sự suy thoái ngoại giao này, hòa bình vẫn còn ý nghĩa. Trung Quốc phải đối phó với những vấn đề to lớn ở trong nước. Trung Quốc hưởng lợi từ thị trường Hoa Kỳ và liên hệ tốt đẹp với các nước láng giềng, cũng giống như vào năm 2001. Đảng Cộng Sản Trung Quốc và những nhà lãnh đạo Tòa Nhà Trắng dù thuộc bất cứ khuynh hướng chính trị nào cũng đều thu thập được nhiều lợi ích từ phát triển kinh tế hơn bất cứ cái gì khác.
Những nhà lãnh đạo Trung Quốc hiểu rõ điều này. Vào tháng 11/2003 và tháng 2/2004, Bộ Chính Trị của Trung Quốc đã nhóm những phiên họp đặc biệt về sự hưng thịnh và suy thoái của các quốc gia kể từ thế kỷ 15. Những chính trị gia Hoa Kỳ dư hiểu biết rằng mặc dù việc đối phó với một Trung Quốc hùng mạnh sẽ khó khăn, việc đối phó với một nước Trung Quốc bất mãn và hùng mạnh sẽ vô phương.
Tuy nhiên ngày nay nhiều yếu tố trên nhiều mặt, từ chính trị nội bộ đến hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chánh, kết hợp lại làm cho mối quan hệ trở nên tồi tệ hơn. Nguy cơ không phải là chiến tranh – vào giai đoạn hiện nay điều này hầu như không ai nghĩ đến việc này, chỉ vì rủi ro quá to lớn, rất bất lợi cho mọi người. Mối nguy là các nhà lãnh đạo Trung Quốc và Hoa Kỳ sẽ tạo ra nền tảng cho sư đối kháng sâu đậm trong thập niên sắp tới. Điểm này được Ông Henry Kissinger mô tả rành mạch nhất.
Khía cạnh đen tối
Dưới thời Tổng Thống Richard Nixon, Ông Kissinger đã tạo điều kiện cho 40 năm hòa bình ở Á châu bởi nhìn thấy rằng Hoa Kỳ và Trung Quốc cùng hưởng lợi khi hợp tác làm việc với nhau thay vì cạnh tranh lẫn nhau. Ngày nay, ông Kissinger lo âu. Tại buổi họp của Viện Nghiên Cứu Quốc Tế về Chiến Lược (International Institute for Straregic Studies) vào tháng 9 vừa qua, Ông Kissinger nhận xét rằng đưa Trung Quốc vào trật tự thế giới còn khó hơn là đưa Đức quốc vào cách đây một thế kỷ.
Theo Ông Kissinger: “Đây không phải là một vấn đề kết hợp một quốc gia thuần nhất mà là một cường quốc to lớn phát triển toàn diện… Vòng xoắn DNA của cả hai quốc gia có thể tạo ra một mối quan hệ thù nghịch ngày càng lớn rất giống như hai nước Đức và Anh chuyển từ bạn sang thù… Washington hoặc Bắc Kinh đều không thực tập một quan hệ cộng tác trong sự bình đẳng. Những nhà lãnh đạo của hai nước không có một nhiệm vụ nào quan trọng hơn là thực thi chân lý cho thấy không bao giờ một nước này có thể chế ngự nước kia và sự xung đột giữa hai nước sẽ làm kiệt quệ xã hội và di hại cho triển vọng hòa bình thế giới.”
Không có nơi nào mà sự kình địch chớm nở lại rõ rệt nhất giữa quân lực của Hoa Kỳ và quân lực của Trung Quốc, một lực lượng đang được hiện đại hóa nhanh chóng. Về toàn bộ, quân lực của Hoa Kỳ siêu việt hơn nhiều. Nhưng quân lực của Hoa Kỳ sẽ không còn có thể chiến thắng một cách dễ dàng ở trong vùng duyên hải của Trung Quốc.
Fwd: Mượn nước đẩy thuyền - (xin phổ biến rộng trên các diễn đàn)
Mấy tin dồn dập gần đây cho thấy vấn đề gì?
Sự chuẩn bị đại hội đảng CS, Ngàn Năm Thăng Long, TC sắp đặt quân đội tại các chiếnh điểm lưỡi bò, mới đây họ giàn trận tại Myanmar. Xung đột bắc Hàn nam Hàn, sự chuẩn bị tiến công của Nam Hàn và Mỹ. Mỹ cùng Nhật và khối âu châu, LX, sẵn sàng giàn trận tại Á Châu. Canada và các nước dân chủ đồng loạt khoe về các vũ khí tối tân, không quân, máy bay mới v.v.
Vấn đề tại vùng Thái Bình Dương, riêng vấn đề VN. chúng ta phải thấy cái ánh sáng đang hé lộ, chúng ta đã sống trong tối, chờ sáng bấy lâu nay, khi chúng ta biết ánh sáng chổ nào, tại sao chúng ta không cùng xé màng cái chổ sáng đó, thì nó sẽ rách toẹt màng đêm?
Nói cách khác là chúng ta biết rằng bấy lâu nay VC đã lội ngược giòng, bổng dưng bây giờ giòng nước nó đang suôi, chúng ta phải đẩy cho nó chạy theo giòng luôn, khi giòng nước quá mạnh, thì không còn gì kéo nó lại được
Nguyễn Chí Vịnh đang muốn kéo, bướng lại, nhưng con thuyền đang được chuyển hướng, chỉ cần chúng ta xoay thêm chút nữa là được.
Đó là, lý do tại sao Mỹ vào VN lúc này? Bởi vì chính VC đã muốn xoay chiều, nhưng tất nhiên bên trong còn những cái gai phá hoại. Nhưng mà Mỹ đã vào được rồi, thì chứng minh thế lực VC theo Mỹ đang mạnh như thế nào. Ngay lúc này cũng là lúc các nhà dân chủ, tập thể đấu tranh trong nước nói chung đang chờ cơn biến động chính trị hay cơn biên động từ lãnh đạo?
Nói về biến động chính trị, chỉ có hai việc có thể xãy ra, là thay đổi từ cấp trên bộ chính trị VC theo xu hướng Mỹ qua đại hội kỳ tối, hoặc là Mỹ và Nam hàn tấn công Bắc triều tiên. Cả hai xu thế này sẽ làm đà đẩy cho sự tự do VN. Lý do là khi Nam Hàn và Mỹ tấn công Bắc Hàn, TQ phải nhún tay, nhưng khi TQ nhún tay thì cả thế giới nhún tay, nhất là các nước láng giềng TQ bao vây TQ sẽ phòng thủ ranh giới của họ, vì thế TC không thể nào tấn công bất cứ lãnh thổ nước nào cả ngoại trừ VN, Lào, Campuchia và Thái Bình Dương là cái cửa chính cha âm mưu bá đạo của Hán tộc.
Về hai vấn đề biến động chính trị của VC theo xu hướng Mỹ, là thực tế nhất, còn vụ Triều Tiên là kình địch thôi. Thực tế nhất chúng ta quan tâm là biến đổi chính trị của VC sắp tới. Nhưng chúng ta không thể chờ, mà theo qui luật phát triể dân chủ, là phải chủ động.
Các thế lực đấu tranh biết rõ là không có quân đội, không có gì cả, ngoại trừ lòng dân. Mà lòng dân thì đã có sẵn, nhưng không biết đẩy mạnh lòng dân thành thực tiễn để thay đổi VC mà thôi.
Đó là tuyên truyền, Giai đoạn này là tất cả chúng ta phải tập trung tuyên truyền. Tuyên truyền bằng mọi cách để đẩy mạnh thế lực dân chủ trong nước. Chứ chúng ta không đẩy mạnh thế lực cấp tiến của VC, vì sẽ bị gây hoang mang CĐ, thậm chí còn mang họa vào thân là "bọn hòa giải". Lúc này, chúng ta không chê, chửi VC gì cả, mà làm cho lòng dân sôi sục lên, sự biết động là phải nhờ vào sức tập trung đoàn kết tuyên truyền về mọi mặt đòi hỏi tự do dân chủ. điểm cần thiết là cho cả nước VN thấy sự biến động đang xãy ra, để từ đó, chúng ta giúp thống nhất được các lực lượng sau:
- Sinh viên, chuyên gia, thương gia trong nước nói chung theo xu hướng ủng hộ Mỹ vào VN. Từ đó các thế lực dân chủ sẽ mạnh miệng hơn đòi hỏi tự do v.v.v
- Các thế lực dân chủ và đòi hỏi tự do tôn giáo và dân quyền cần trợ lực thật sự, dù là Phật Giáo, Hòa Hảo, Thiên Chúa, hay Ngư Dân, Nông Dân đòi đất nói chung. Phải kết hợp tất cả các tiếng nói này thành một. Lý do là gần đây, có một vài tổ chức tại hải ngoại chỉ đòi hỏi cho Thiên chúa giáo, thậm chí, họ còn cố tình làm lỏng, nhạt đi các thế lực dân chủ và đòi tự do dân chủ của các nhóm Phật Giáo. Tại sao? cũng vì tranh chấp tôn giáo. Đừng tưởng rằng vụ "Về Nguồn" chỉ đơn giản do thế lực Quốc Doanh cố tình gây chia rẽ, mà phải xem lại bản chất tuyệt tình của các phe tôn giáo khác cố tình chỉ muốn đưa ngoại đạo của mình tiép tục làm Quôc Giáo sau này theo chiều hướng của triều Ngô.
Nói tóm lại, khi các thế lực tập trung, từ dân, tới các nhà dân chủ nói chung, thì bên trong sẽ tự động làm cho phe VC thân Mỹ sung sức. Khi đó, đám thân TC phải kêu gọi đàn áp mạnh hơn cả, phải cố gắng bẽ thế Việt Mỹ từ trong nước tới hải ngoại này. Nhưng điều chúng ta muốn là phải làm mọi các cho Việt-Mỹ kết giao, tai sai Trung Cộng trong các bộ ngành quốc phòng VN, công an không thể có chổ đứng, thì VN mới sớm có ánh sáng rõ hơn, chúng ta đang chỉ cố cào, xé để tìm có ánh sáng, mà thấy ánh sáng rồi, không tập trung đâm vào chổ đó, lo xé chổ khác không thấy lối ra, thì bao giờ tập trung được sức mạnh?
Vì thế, ngay lúc này, tuyên truyền, và tập trung tuyên truyền là cần thiết, Đó là, tập trung tuyên truyền để đẩy mạnh xu thế cho Việt-Mỹ kết giao quân đội, và chiến lược biển đông mạnh hơn. VC đang làm việc đó, VC đang muốn thay đổi chính trị, nhưng trong thế ôn hòa, nhưng trong ôn hòa đó, lại có đám muốn bạo động là phe thân TC. Vì thế, khi VC thay đổi, mà có Mỹ vào rồi, là thuyên đang chuyển hướng Nam, bây giờ có gió bắc cản, thì nên có hải ngoại thổi mạnh hơn, thổi cho nó áp đặt cả giớ bắc có đúng không?
Muốn được vậy, chúng ta không có hòa hợp hòa giải với VC, mà đẩy cho dân chủ và lòng dân mạnh lên. Để phe VC muốn làm dân chủ thật sự có sức ép mạnh mẽ để thay đổi trong kỳ đại hội đảng này. Và tất nhiên chúng ta không cần nghĩ nhiều cũng biết rõ, là họ cũng vẫn muốn bảo vệ quyền lợi đảng trên hết. Vậy thì làm sao?
1. Cần phe Nam theo gió nam
2. Gió nam phai cầm cán.
(Chúng ta không đòi bỏ điều bốn hiến pháp bởi vì VC không bao giờ bỏ, nếu tốt lắm VC có thể làm là đại hội kỳ tới họ sẽ tuyên bố là "đợi cho kỳ sau sửa đổi hiến pháp", thế là phải đợi tiếp có đúng không?, chúng ta, toàn dân không thể đợi, mà phải hình thành hiến pháp mới.) Nhưng muốn có hiến pháp, phải có các phong trào chính đảng trong nước kết hợp, mà muốn kết hợp, phải có bản quyết nghị chung, ít nhất bản này sẽ được hình thành như một quyết nghị đấu tranh dân chủ, thậm chí cả VC sẽ phải chấp nhận ủng hộ, đó là những người cánh Nam. Nhưng bao giờ đến? Trước đó nữa là phải có sự đòi hỏi chung.)
Vậy thì cái sự đòi hỏi chung cụ thể nhất là gì?
Là phải đòi hỏi kết quả
Nhưng biểu tình, tuyệt thực, đòi dân chủ, đòi trả lại đất, trả lại công bằng. VC có trả không? không? Và cũng không phải là kết quả cụ thể, nó chỉ là tác động của VC đàn áp, sự đàn áp, và dân tộc ta phản hồi đòi hỏi vì bị áp bức quá. Mà có kết quả không.
Chắc chắn là không. Bởi vì chiêu của VC là bắt thả, thao, túng. Để tất cả bận rộn đòi hỏi theo phản xạ tự nhiên.
DÂN TỘC SINH TỒN là phải đòi hỏi cụ thể và vượt hẳn khỏi sự phản hồi.
Vậy thì là đòi hỏi cái gì. Đòi hỏi luật Civil Rights!
Đó là mục tiêu toàn dân phải đạt nếu muốn dẹp VC, thay đổi hiến pháp, xóa bỏ độc tài.Và để Dân Tộc Sinh Tồn và Độc Lập Tự Do, Dân Chủ Phát Triển phồn thịnh.
Nói rõ hơn là tất cả phải cùng nhau đòi luật dân quyền. Khi VC đang nói "Nhân Quyền", thế giới tôn trọng Nhân Quyền, dân tộc ta không thể cạnh tranh vì không có dân quynề. Thì chúng ta phải có luật Dân Quyền.
Luật Dân Quyền là kết quả cụ thể nhất, trước nhất mà các phong trào dân chủ phải đòi hỏi. Khi dân trong nước có luật dân quyền, là tránh được bị CA đàn áp. Các đảng phái sẽ hòa hợp nhau trong cạnh tranh quyền lực. Các phong trào, tổ chức, và Luật Sư là chính, là những người đem tác động cụ thể nhất đến cho công cuộc đòi dân quyền VN.
VN không có luật dân quyền, chỉ có luật hình sự, vì thế, không bao giò có cái tội là nhà nước đàn áp dân. Chỉ có dân phạm tội. Dù hiền tù cũng là là tội phạm, giết người cũng là tội phạm.
Vì thế, chỉ có luật dân quyền mới phân biệt được "tội phạm" và "bị đàn áp".
Các vị nên nghiên cứu bộ luật dân sự của Canada và Mỹ. Về Civil Rights, và Criminal Code. Trong Criminial Code, ghi rõ các tội trạng phá hoại xã hội, như trộm cướp thì bị tù. Còn Civil Rights ghi rõ về quyền người dân trong thể chế dân chủ. Cái này, VN không có. Vì thế, dù là tu, hay làm chính trị đối lập đều bị án "Tội phạm" như những người trộm cướp. Thậm chí cả trên mặt tuyên truyền VC dùng điểm lợi này ghép cho các hành động dân chủ là hành động đòi trụy, dâm ác như bao tên ác khác. Tại sao? Tại vì VN không có Civil Rights. Và chúng ta phải hình thành Civil Rights. Có Civil Rights, có toàn dân chấp nhận, thì dù cho VC có trấn áp, thì cũng sẽ đi ngược giòng chính của nhân dân. Khi VC từ khước Civil Rights, là VC trở thành tội phạm của toàn dân. Lúc đó, VC chỉ dùng luật tội phạm ghép cho dân, nhưng dân áp dụng Civil Rights để dẹp VC. Đây là dùng luật chế luật.
Tuyên truyền lúc này cho nên nói, là nói tới luât. Phân tích luật, đòi luật, đoàn kết dân bằng luật, dẹp VC bằng luật, bởi vì, chính VC đang đàn áp dân cũng là họ "chơi Luật".
Bây giờ chúng ta phải rõ hơn, là giữa hai cánh đấu tranh. Đạo pháp, và Luật pháp.
Các tổ chức tôn giáo sẽ phải chỉ đạo về mặt đạo pháp, đó là cánh tay nung đút cho tinh thần dân tộc và phát triển nghị lực đấu tranh của toàn dân.
Các tổ chức luật sư, các nhà kinh tế, ngoại giao, trí thức phải kết hợp đấu tranh thực hiện các đạo luật cụ thể nhất để bênh vực cho toàn dân, thậm chí, thay đổi chế độ mới cũng cần phải thực hiện thi hành Luật là cách ôn hòa nhất.
Thế thì, Đạo, và Luật, cái nào Chính, cái nào Phụ?
Theo binh pháp tây phương, và cả đông phương.
Nếu phong trào đ'âu tranh không có chính phụ tương trợ, tất bị chia rẽ, khi bị chia rẽ, thì phong trào đó thất bại.
Ví dụ, khi cha Lý chống cộng. Cha Lý đang đấu tranh đòi "đạo", hay "luật".
Cha đòi "đạo" được tự do, ai cho Cha Tự Do? xin à, "VC KHOAN HÔ`NG". à "kHOAN HÔNG" LÀ "ĐẠO". nHƯNG VC dùng "luật" để trấn áp Cha.
Khi chị Lê Thị Công Nhân đòi dân chủ, chị đòi đạo, hay luật? chị đòi Luật. Nhưng luật nào sẽ bảo vệ chị? Chị lại chờ "đảng khoan hôồg". Thế là VC dùng đạo. Cả hai, Đạo đức, và Luật pháp, VC đều dùng. Còn phía đòi dân chủ chưa có Luật nào để bảo vệ, mà chỉ đòi đảng Khoan Hồng.
Vậy có phải là chúng ta không có đấu tranh đòi hỏi kết quả cụ thể có đúng không? Cho nên mới yếu hoài.
Nói rõ ở đây, vì sao Đức Trần Hưng Đạo, có thể qui tụ được toàn dân?
Có phải ông đã ra lời tuyên bố "hịch tướng sĩ" như một quyết nghị chung kêu gọi toàn dân toàn đảng kết hợp?
Chưa đủ, thời thế loạn hay dân phóng túng? Chính ngài kêu dân và tướng mọi địa phương phải học quyển sách "Hưng Đạo Binh Pháp" ? Đó là "Luật".
Thời nay, chúng ta có "Nghị quyết chung" không?, chúng ta có "Luật" nào để chúng ta áp dụng để "trị" bọn bán nước không?
Không, vì thế mà yếu.
VC đối với dân trong nước có cả trăm nghị quyết để giết dân. hải ngoại chúng có NQ36. Và chúng chỉ có một luật duy nhất là "hình sự".
Còn dân chủ không có nghị quyết chung, không có "luật" nào cả. Theo chỉ đa.o đấu tranh, nếu bên nào có bên đó mạnh, bên nào không có, bên đó bị trấn áp.
Chúng ta nên biết thế thượng giòng của Mỹ, và thế giới đang chèn ép TC khi TC quá xấc xược muốn độc bá biển đông. Dù là vì dân tộc, hay đảng. ngay cả VC cũng không phải là không có người muốn đẩy thuyền theo hướng tốt. Đó là điểm chung mà tất cả người Việt nói chung sẽ phải đạt đến.
Nói tóm lại, Tuyên truyền lúc này cho nên nói, là nói tới luât. Phân tích luật, đòi luật, đoàn kết dân bằng luật, dẹp VC bằng luật, bởi vì, chính VC đang đàn áp dân cũng là họ "chơi Luật".
Thanh Niên Dân Chủ
Luận về Trung Lập Pháp Lý - Dương Thái Sơn
* Dương Thái Sơn
Hai chữ ''Trung Lập'' quả thật đã gây ra nhiều vấn đề vì nội dung của nó khá mông lung, nhất là đối với những người chưa nắm vững các ý niệm về Trung Lập trong Quốc tế Công pháp. Theo tự nguyên thì Trung Lập có nghĩa là đứng ở giữa, tức là không thiên về bên nào. Giản dị là như vậy. Nhưng trên thực tế nó không giản dị như vậy, vì nó bao gồm một ý nghĩa rộng lớn từ một thái độ đứng giữa cho đến một qui chế đứng giữa của một quốc gia.
I/- Ba khái niệm liên hệ đến chữ Trung Lập.
Có ba khái niệm liên hệ đến chữ Trung Lập m?? chúng ta cần phân biệt là : Trung lập sách, Trung lập chế, và Trung lập hóa.
A/- Trung lập sách (Neutralism): Đây là chánh sách trung lập, cũng gọi là chánh sách phi liên kết. Ở đây hai chữ cần nhấn mạnh là Chánh Sách. Vì là chánh sách nên có thể thay đổi bất cứ lúc nào theo ý của nhà cầm quyền đương nhiệm, hoặc có thể thay đổi cùng với sự thay đổi chánh quyền, như chúng ta thường nghe nói chánh sách đối ngoại của Tổng Thống Nixon hoặc chánh sách đối ngoại của Tổng Thống Clinton,v.v.. Như vậy chánh sách Trung Lập chỉ nhằm nói lên một chánh sách giai đoạn của một chánh quyền chứ không phải là một qui chế vĩnh cửu của quốc gia.
B/- Trung Lập Chế (Neutrality): đó là qui chế trung lập pháp lý vì nói đến qui chế tức là nói đến một nền tảng pháp lý mà trong đó đương sự có những quyền lợi và cũng có những nghĩa vụ nữa. Một quốc gia đã theo qui chế trung lập pháp lý thì chánh quyền không thể dễ dàng thay đổi qui chế của quốc gia như là thay đổi chánh sách. Qui chế Trung lập pháp lý có thể được thiết lập trong hai trường hợp:
1/- Do quốc gia tự tuyên bố và đòi hỏi các quốc gia trong cộng đồng quốc tế công nhận, như trường hợp của nước Áo năm 1955. Sự tuyên bố và công nhận đó tạo thành một qui chế trung lập pháp lý vĩnh viễn (hay thường trực) của quốc gia. Đây là trường hợp mà GS. Nguyễn Ngọc Huy rất mong muốn cho nước Việt Nam.
2/- Các quốc gia trong Cộng đồng quốc tế (thường là do siêu cường chi phối) quyết định một quốc gia nào đó hoặc một vùng lãnh thổ nào đó đặt dưới qui chế Trung lập pháp lý mà quốc gia đương sự phải chấp nhận. Thí dụ như qui chế trung lập pháp lý của nước Lào theo Hiệp định Geneve năm 1962.
C/- Trung Lập Hóa (Neutralize): đây là tiến trình đưa một quốc gia hay một vùng lãnh thổ vào qui chế Trung lập pháp lý (tất nhiên phải có sự công nhận và bảo đảm của cộng đồng quốc tế).
II/- Nội dung của Qui chế Trung lập Pháp lý.
Nội dung này bao gồm một số quyền lợi v?? một số nghĩa vụ. GS. Nguyễn Ngọc Huy đã viết về nội dung đó như sau:
''Cũng như các qui tắc khác thuộc quốc tế công pháp, các qui tắc dính dáng đến qui chế trung lập pháp lý không phải minh xác và có tính cách cưỡng chế tuyệt đối như các luật lệ nội bộ của một quốc gia. Bởi đó, trong sự áp dụng qui chế trung lập pháp lý, các quốc gia có thể có những lề lối giải thích khác nhau về phạm vi nghĩa vụ và quyền lợi của quốc gia theo qui chế trung lập pháp lý vì đó mà hoàn toàn không phải minh bạch. Tuy nhiên, vẫn có những điểm chánh yếu m?? mọi quốc gia đều phải công nhận trên lý thuyết cũng như trên thực tế. Nói chung lại thì các nghĩa vụ về quyền lợi của một quốc gia theo qui chế trung lập pháp lý có thể gom về hai lãnh vực quân sự và kinh tế. Về mặt quân sự, các quốc gia đã có một lập trường như nhau nên phạm vi nghĩa vụ về quyền lợi của quốc gia theo qui chế trung lập pháp lý rất rõ ràng. Nhưng về mặt kinh tế, các quốc gia đã có những lối giải thích rộng hẹp khác nhau về một số nguyên tắc nên phạm vi nghĩa vụ về quyền lợi của quốc gia theo qui chế trung lập pháp lý vẫn còn có những chỗ mù mờ dọn đường cho những sự tranh chấp.'' (1)
Từ nhận định về nội dung đó, GS. Huy đã nói một cách cụ thể hơn cho nước Việt Nam như sau:
''LMDCVN chủ trương theo qui chế Trung Lập Pháp Lý như Thụy sĩ, Thuỵ Điển hay Áo. Chủ trương này khác với chủ trưong theo Chánh sách Trung Lập cũng được gọi là Chánh sách phi liên kết. Trong thực tế, các nước tự xưng là theo chánh sách trung lập hay phi liên kết phần lớn đã theo hẳn siêu cường này để chọi siêu cường kia. Trong khi đó, qui chế trung lập pháp lý mà Liên Minh chủ trương là một qui chế được quốc tế nhìn nhận. Quốc gia theo qui chế này không liên minh quân sự với bất cứ nước nào khác, không để cho bất cứ nước nào khác dùng lãnh thổ mình để tấn công nước thứ ba, và đứng ngoài các cuộc tranh chấp võ trang giữa các nước khác. Chủ trương trung lập theo qui chế pháp lý quốc tế phù hợp với chủ trương hòa bình. Nó không ngăn cản dân tộc Việt Nam tự võ trang để tự vệ, chỉ đòi hỏi dân tộc Việt Nam khước từ dùng võ lực để xâm lấn nước khác hay tham dự các cuộc tranh chấp võ trang giữa các nước khác.'' (2)
III/- Lợi ích của qui chế trung lập pháp lý đối với Việt Nam .
Có những lợi ích sau:
1/- Vị trí nước Việt Nam nằm tại ngả tư quốc tế Đông Nam Á, qui chế trung lập pháp lý sẽ tạo một địa bàn mở ngỏ và ổn cố cho các nước đến Việt Nam giao dịch trên mọi phương diện, tạo cơ hội cho nước VN phát triển về mọi mặt trong tương quan đa phương, đa quốc, đa diện, đa sắc, để hình th??nh một địa vị lý tưởng cho một quốc gia lý tưởng.
2/- Tránh đưa Việt nam vào vị trí tiền đồn chiến tranh trong tương lai (một kinh nghiệm đã quá đau thương trong quá khứ). Ngày nay, mặc dù chiến tranh lạnh giữa Tư Bản và Cộng Sản không còn nữa, nhưng những chiến tranh khác trong tương lai giữa các siêu cường Á Châu với nhau hoặc giữa các siêu cường Á Châu và siêu cường Tây phương có thể xảy ra.
IV/- Sự áp dụng qui chế trung lập pháp lý vào thực tế.
Trên thực tế, một số quốc gia tuyên bố theo chánh sách trung lập, nhưng thật sự họ đã không giữ thái độ trung lập mà họ đã thiên bên này hoặc thiên bên kia, hậu quả là họ không còn giữ được uy tín trung lập (như Ai Cập, Nam Dương, Nam Tư).
Một vài quốc gia khác từ chủ trương Trung lập sách họ muốn tiến tới qui chế Trung lập pháp lý cho quốc gia họ như nước Miên hồi thời Ông Sihanouk còn làm Quốc Trưởng thời trước 1970. Ông Sihanouk đã từng lớn tiếng kêu gọi thế giới phải công nhận và tôn trọng nền Trung lập của nước Miên. Nhưng chính ông đã phản bội nền trung lập đó khi ông chứa chấp Bộ Đội Cộng sản Bắc Việt và MTGPMN lập căn cứ trên đất Miên để chống VNCH, và hậu quả là nước Miên bị sa vào cuộc chiến từ lân bang đưa đến. Nếu ngày xưa, ông Sihanouk thi hành đúng qui chế trung lập pháp lý mà ông đòi hỏi thì nước Miên đã khác, đã thành một nước huy hoàng, phát triển, hòa bình và thịnh vượng. Việt Nam ta nên học bài học Trung lập pháp lý của ông.
Đối với nước Việt nam ngày nay, sự áp dụng qui chế trung lập pháp lý không phải dễ mà cũng không phải khó.
a)- Các hoàn cảnh trở lực cho sự thực hiện này là:
1/- Đảng CSVN vẫn còn đầu óc lệ thuộc (hết thuộc Nga lại thuộc Tàu, rồi đây sẽ thuộc Mỹ).
2/- Một số người Việt Nam kể cả người Việt quốc gia ở hải ngoại chưa ý thức được tương lai phát triển chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa,.. . của đất nước phải theo phương hướng nào: phương hướng địa lý chính trị tự lập hay phương hướng lệ thuộc Khối. Phương hướng lệ thuộc Khối vẫn còn mạnh mẽ trong tâm lý người Việt. Phương hướng này sẽ biến Việt Nam thành tiền đồn của Khối này để chống lại Khối nọ về đối ngoại. Còn về đối nội, người VN sẽ tiếp tục bị phân hóa trong tiến trình kết Khối để chống nhau đó. Đây là bài học lịch sử quá đau thương mà người Việt Nam cần phải suy nghĩ.
3/- Các siêu cường đang tranh giành Việt Nam (do sự cầu cạnh và hiến mình của CSVN) sẽ không muốn Việt Nam thành Trung lập pháp lý và thoát khỏi tay mình.
b)- Các hoàn cảnh thuận lợi là :
1/- Sau khi CS Liên Xô và Khối Đông Âu sụp đổ, đây là cơ hội để Việt Nam thoát khỏi quỹ đạo kềm kẹp của hệ thống Cộng Sản quốc tế, để tự mình chọn lấy một qui chế địa lý chính trị tự lập cho quốc gia mình và tránh xa tranh chấp của các siêu cường.
2/-Nếu chánh quyền Việt Nam chấp nhận thiết lập qui chế trung lập pháp lý cho quốc gia sẽ được hậu thuẫn của mọi người VN và của quốc tế, đó là cơ hội và cũng là môi trường để thực hiện đại đoàn kết quốc gia, thống nhất dân tộc Việt Nam hiện ở rải rác khắp nơi trên thế giới và đang thuộc nhiều khuynh hướng chính trị, tạo được sức mạnh Phù Đổng của dân tộc để tái thiết đất nước, củng cố thêm vị trí trung lập của mình tại ngả tư Đông Nam Á Châu. (Điều này đòi hỏi CSVN phải đặt quyền lợi đất nước và dân tộc lên trên quyền lợi đảng và quyền lợi bản thân).
3/- Thời cơ thuận lợi nhất là lúc Liên Xô sụp đổ, Trung Quốc và Việt nam còn chống nhau và Việt nam muốn mở cửa giao thiệp với Tây Phương và nhất là còn đang tìm cách xin thiết lập bang giao với Hoa Kỳ (tức là từ 1990 đến 1993). Tuy vậy, thời điểm hiện nay cũng chưa phải là muộn.
4/- Hiện nay, Hoa Kỳ và Trung Quốc đều không muốn đụng độ trực tiếp với nhau, nhưng cả hai đều không muốn mất quyền lợi kinh tế ở Việt Nam. Nếu Việt Nam biết khai thác hoàn cảnh này để trước một Hội Nghị quốc tế nào đó (như Hội Nghị APEC chẳng hạn) đưa ra chủ trương nước Việt Nam trung lập pháp lý và kêu gọi quốc tế thừa nhận để bảo đảm quyền lợi chung cho tất cả các nước trong tương quan đa quốc. Đây là một triển vọng, nếu Việt Nam biết nắm lấy.
* * Một câu hỏi đặt ra là : Nếu Việt Nam không liên kết với Khối Tây Phương nhất là Hoa kỳ thì làm sao Việt Nam có đủ sức chống lại sự xâm lăng của Trung Quốc ?
Ai cũng biết rằng Trung Quốc là kẻ mạnh, còn Việt Nam là kẻ yếu nên lúc nào cũng lo sợ kẻ mạnh lấn hiếp. Nhưng nếu đi nhờ Hoa Kỳ (hay nước nào khác) để chống lại Trung Quốc thì coi chừng bị hỏng giò như trường hợp VNCH trước đây. Câu hỏi là Hoa Kỳ có thực sự muốn đụng độ trực tiếp với Trung Quốc để bảo vệ Việt Nam không? Câu trả lời có lẽ không khó.
Muốn chống xâm lăng trước hết phải trông cậy ở sức mình, sức mạnh quân sự, sức mạnh kinh tế, và sức mạnh chính trị. Muốn có sức mạnh Phù Đổng này cần phải có Chính trị dân chủ và kinh tế tự do để phát triển đất nước và đoàn kết nhân dân. Còn trông cậy Hoa Kỳ (hay nước nào khác) đánh giặc thế cho ta để bảo vệ đất nước ta và sự tự do của ta, đó là một bài học đẫm máu, nước mắt và tù đày mà người Việt Nam đã học trong những thập niên qua. Thử hỏi có bao giờ Hoa Kỳ mang quân đi đánh Trung Quốc để đòi lại Hoàng Sa, Trường Sa cho Việt Nam không ? Người sáng suốt tất nhìn thấy sự liên minh quân sự chỉ có lợi cho nước lớn mà không có lợi cho nước nhỏ. Nước nhỏ có thể bị bỏ rơi hoặc bị bán đứng vì sự nhượng bộ quyền lợi giữa những nước lớn.
Muốn bảo vệ lãnh thổ hữu hiệu phải lo cho quốc phú dân cường, và đoàn kết được toàn dân dưới lá cờ chánh nghĩa của Quốc gia lý tưởng mà mọi người dân đều mong muốn để phụng sự, chứ không có nước nào muốn liều chết để bảo vệ lãnh thổ cho chúng ta cả. Đó là một chân lý lịch sử.
Thời nhà Lý, nhà Trần, thời nhà Lê, và thời Nguyễn Tây Sơn, đâu có cường quốc nào hậu thuẫn chúng ta, thế mà nhờ đoàn kết được toàn dân, tổ tiên chúng ta vẫn chống được kẻ xâm lược.
Nói tóm lại, muốn bảo vệ được đất nước, cần phải phát triển đất nước về mọi mặt: kinh tế, quân sự, ngoại giao, và lãnh đạo được lòng dân. Muốn được như vậy phải có tự do dân chủ là bước đầu tiên; không có bước đầu tiên tốt đẹp này, tương lai đất nước sẽ mịt mờ trước nạn ngoại xâm, và liên minh quân sự sẽ dẫn đến một cái tròng nô lệ khác.
* Dương Thái Sơn
1 Nguyễn Ngọc Huy, Sách Tài Liệu Huấn Luyện LMDCVN, Tổng Bộ Tuyên Huấn ấn hành, Hoa Kỳ, 1990, trang 494.
2 Sách đã dẫn, trang 550.